Theo Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật BLDS 2005 Quy định
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
II. Ngưởi thuộc diện được hưởng thừa kế di sản do người chết để lại được quy định như sau:
- Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được xác định dựa trên ba mối quan hệ với người để lại di sản: hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng trên cơ sở kết hôn hợp pháp (theo các điều kiện do pháp luật quy định tại thời điểm kết hôn);
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có chung một dòng máu theo trực hệ (cụ, ông, cha, con, cháu, chắt …) hoặc theo bàng hệ (anh, chị, em);
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi. Việc nuôi dưỡng phải tuân theo các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình tại thời điểm nhận nuôi dưỡng.
- Trên cơ sở quan hệ huyết thống từ gần đến xa, pháp luật phân chia diện những người thừa kế thành các hàng thừa kế. Tuỳ thuộc vào quan điểm lập pháp của Nhà nước ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau, pháp luật quy định diện những người thừa kế gồm nhiều hay ít và được phân chia thành hai hay nhiều hàng thừa kế. Hiện nay, theo Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định có ba hàng thừa kế:
+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Người thừa kế là vợ (chồng)
Thông thường, người chồng (vợ) chết thì vợ (chồng) còn sống tại thời điểm mở thừa kế là người thừa kế ở hàng thứ nhất mà không phân biệt người vợ (chồng) đã kết hôn với người khác hay chưa.
Trường hợp, vợ chồng đang xin ly hôn mà Toà án chưa giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được hưởng di sản của người chết, bởi vì trên thực tế quan hệ vợ chồng chưa chấm dứt, cho nên họ được thừa kế của nhau.
Người thừa kế là cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi
Cha đẻ, mẹ đẻ là người sinh ra người để lại thừa kế. Thông thường, cha đẻ và mẹ đẻ có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, con ngoài giá thú thì cha đẻ và mẹ đẻ không có quan hệ hôn nhân hoặc có kết hôn nhưng không hợp pháp.
Cha nuôi, mẹ nuôi là người nhận nuôi dưỡng người thừa kế và được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tại thời điểm đăng ký.
Người thừa kế là con đẻ, con nuôi
Con đẻ là người có quan hệ huyết thống với người để lại thừa kế là cha hoặc mẹ. Con đẻ là người sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của cha, mẹ hoặc con ngoài giá thú của cha, mẹ.
Con nuôi được người để lại thừa kế nhận nuôi hợp pháp. Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và được thừa kế tài sản của cha đẻ, mẹ đẻ theo quy định tại Điều 677 và Điều 678 Bộ luật Dân sự.
Trường hợp cha nuôi (hoặc mẹ nuôi) chết mà mẹ nuôi (hoặc cha nuôi) kết hôn với người khác, thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người đó, người chồng mới của mẹ nuôi (hoặc vợ mới của cha nuôi) không mặc nhiên trở thành cha nuôi hoặc mẹ nuôi của người con nuôi. Quan hệ nuôi dưỡng này có thể phát sinh nếu tuân theo các điều kiện do pháp luật quy định.
Con riêng và bố dượng, mẹ kế không mặc nhiên được thừa kế tài sản của nhau. Giữa họ phải có việc nuôi dưỡng và chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Người được nuôi dưỡng là con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất khả năng lao động. Bố dượng, mẹ kế không những nuôi dưỡng mà còn yêu thương, chăm sóc người con riêng như con đẻ của mình.
Bố dượng, mẹ kế là người mất khả năng lao động và không có người nuôi dưỡng mà được con riêng nuôi dưỡng, chăm sóc bố dượng, mẹ kế như cha đẻ, mẹ đẻ của mình, thì họ được thừa kế tài sản của nhau.
+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Ông nội, bà nội là người sinh ra cha đẻ của người để lại thừa kế; ông ngoại, bà ngoại là người sinh ra mẹ đẻ của người để lại thừa kế. Nếu ông nội hoặc bà nội chết (ông ngoại hoặc bà ngoại chết) mà không có người thừa kế ở hàng thứ nhất thì cháu được thừa kế tài sản của ông nội hoặc bà nội (ông ngoại hoặc bà ngoại). Ngược lại, ông nội, bà nội (hoặc ông ngoại, bà ngoại) là người thừa kế của cháu.
Anh ruột, chị ruột, em ruột là những người có cùng cha đẻ, cùng mẹ đẻ hoặc cùng cha đẻ khác mẹ đẻ, cùng mẹ đẻ khác cha đẻ cũng là những người thừa kế của nhau ở hàng thứ hai.
+ Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Cụ (cụ ông, cụ bà) là người sinh ra ông nội hoặc bà nội hoặc là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người để lại thừa kế.
Người thừa kế là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột:
Bác ruột là người anh ruột, chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ người để lại thừa kế. Chú ruột là em trai ruột của cha đẻ người để lại thừa kế. Cậu ruột là em trai ruột của mẹ đẻ người để lại thừa kế. Cô ruột là em gái ruột của cha đẻ người để lại thừa kế. Dì ruột là em gái ruột của mẹ đẻ người để lại thừa kế. |