1. Đất thờ cúng có được phân chia thừa kế hay
không?
Dear luật sư,hiện tại
em có một số vướng mắc về việc làm di chúc thừa kế cho ba em như sau:ba em sinh
1950, mẹ em sinh 1953 có 4 con trai và 2 con gái, 6 người con đều có gia đình
và ở riêng. Hiện tại 2 ông bà đang ở một mình. Ba em hiện tại muốn lập di chúc
thừa kế với mong muốn ngôi nhà ba mẹ em đang ở hiện tại cho người con trai út,
và với điều kiện ngôi nhà này chỉ thừa kế để thờ cúng không được cầm cố, chuyển
nhượng hay buôn bán thì có được không luật sư.
Và về tranh chấp sau
này với những anh/em khác cho xảy ra không ? Vì nguyện vọng của ba em muốn để
ngoài nhà đang ở là nhà để thờ cúng ông bà, tổ tiên ?
Mong luật sư giải đáp
giùm em. Em cám ơn.
Luật sư Gia Đình rả
lời:
Điều 624 Bộ luật Dân
sự 2015 quy định:
Di chúc là sự thể hiện
ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
=> Do đó, mọi người
phải tôn trọng ý chí cá nhân đó và thực hiện theo đúng nội dung của di chúc mà
ba anh để lại.
- Tại Điều 645 Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định:
1. Trường hợp người
lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó
không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc
quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người
thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý
để thờ cúng.
Trường hợp người để
lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế
cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả
những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng
thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện
thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ
di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì
không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Như vậy, di sản dùng
vào thờ cúng là di sản không phân chia và giao cho người được chỉ định trong di
chúc. Trong di chúc ba anh đã ghi rõ là giao cho anh và không được dùng để
chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp nên anh phải sử dụng căn nhà vào đúng mục đích
là thờ cúng. Trường hợp anh sử dụng, quản lý ngôi nhà không đúng mục đích thì
các anh,chị, em của bạn có quyền giao ngôi này cho người khác quản lý.
Sau này xảy ra tranh
chấp anh/chị/em của bạn yêu cầu chia lại tài sản là ngôi nhà kia thì hành vi
này là trái với quy định của pháp luật. Nếu anh, chị của bạn vẫn tiếp tục tranh
chấp với bạn về ngôi nhà đó thì bạn có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp
huyện nơi bị đơn (anh, chị của bạn cư trú) theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015
2. Tranh chấp việc phân chia di sản thừa kế
dùng vào việc thờ cúng
Câu hỏi về di sản thừa
kế dùng vào việc thờ cúng
Chào luật sư, tôi có
câu hỏi muốn hỏi luật sư như sau: Gia đình tôi có 5 anh em: 4 anh em trai và 1
cô em gái. Bố tôi mất năm 2017 không để lại di chúc hay bất kỳ 1 ý nguyện gì.
Mẹ tôi đã 75 tuổi muốn giao việc thờ cúng, chia phần tài sản cho các con. Anh
trưởng nhà tôi không sống cùng gia đình từ lúc lớn lên lấy vợ bố mẹ tôi đã cho
đất để ở riêng. Ý của mẹ tôi muốn để lại việc thờ cúng cho cậu em út. Và chúng
tôi đồng ý, chỉ có anh, chị dâu trưởng không đồng ý việc chia phần thờ cúng cho
chú em út.
Mặc dù Bà đã chia phần
còn lại đều cho các con kể cả anh trưởng. Nhưng anh trưởng không đồng ý, với lý
do mình là trưởng phải ở nhà đó để thờ cúng. Nhưng 4 anh em tôi không đồng ý,
và mẹ tôi không đồng ý việc đó. Vậy nhờ luật sư tư vấn giúp gia đình tôi.
Câu trả lời về di sản
thừa kế dùng vào việc thờ cúng
Chào bạn, Văn Phòng
Luật Sư Gia Đình cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về di sản thừa kế dùng
vào việc thờ cúng, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về di sản thừa kế dùng
vào việc thờ cúng như sau:
1. Căn cứ pháp lý về
di sản thừa kế dùng vào việc thờ cúng
• Bộ luật dân sự 2015;
2. Nội dung tư vấn về
di sản thừa kế dùng vào việc thờ cúng
2.1. Phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật
Theo thông tin bạn
cung cấp, di sản thừa kế bố bạn để lại là quyền sử dụng đất nhưng không có di
chúc nên sẽ phân chia di sản thừa kế theo pháp luật. Vì khoản 1 điều 650 bộ
luật dân sự 2015 quy định:
“1. Thừa kế theo pháp
luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp
pháp;
c) Những người thừa kế
theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ
quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế;
d) Những người được
chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ
chối nhận di sản.”
Thừa kế theo pháp luật
là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy
định. Theo quy định tại khoản 1 điều 651 bộ luật dân sự 2015 những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di
sản bằng nhau. Trừ trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản thừa kế hoặc
những người thừa kế có thỏa thuận khác. Như vậy việc để một phần di sản thừa kế
để thờ cúng phải được tất cả các hàng thừa kế đồng ý.
2.2. Di chúc dùng vào
việc thờ cúng
Nếu như không thể thỏa
thuận để lại một phần di sản thừa kế của bố bạn dùng vào việc thờ cúng thì mẹ
bạn có thể lập di chúc xác định phần quyền sử dụng đất của mẹ bạn dùng vào việc
thờ cúng và chỉ định một người quản lý theo quy định tại khoản 1 điều 645 Bộ
luật dân sự 2015:
“1. Trường hợp người
lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó
không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc
quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người
thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý
để thờ cúng.”
Di chúc là sự thể hiện
ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di
chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế tức là khi người để lại di sản chết.
Như vậy, nếu mẹ bạn lập di chúc dùng vào việc thờ cúng đối với phần quyền sử
dụng đất của mẹ bạn được hưởng từ một suất thừa kế của bố bạn, anh trai bạn
không có quyền phản đối. Và việc giao cho ai quản lý việc thờ cúng đó là di ý
chí của người lập di chúc không có quy định con trai trưởng phải được quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng.
3. Dành hết di sản cho quỹ từ thiện được
không?
Câu hỏi:
Khi bố mất viết di
chúc đem tài sản (là đất đai) đi từ thiện hết không để lại cho con cái phần nào
thì có được hay không ạ? Ngoài ra di chúc không cần chữ kí của các con có được
không ạ? Trong trường hợp này thì người con có được hưởng phần tài sản nào
không? Xin cảm ơn!
Quyền của người lập di
chúc trong việc dành một phần tài sản trong khối di sản để làm từ thiện được
quy định tại khoản 3 Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
"Điều 626. Quyền
của người lập di chúc
Người lập di chúc có
quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa
kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di
sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài
sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho
người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ
di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản."
Tuy nhiên, Điều 644 Bộ
luật Dân sự 2015 cũng quy định về quyền hưởng di sản của những người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cụ thể như sau:
“Điều 644. Người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây
vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo
pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai
phần ba suất đó:
a) Con chưa thành
niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà
không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản
1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại
Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Như vậy bố bạn chỉ có
quyền dành một phần di sản để tặng cho và không cần sự đồng ý của các con vì
pháp luật quy định nếu bố bạn có cha, mẹ, vợ hoặc con chưa thành niên hoặc con
đã thành niên nhưng không còn khả năng lao động vẫn được hưởng di sản của bố
bạn dù trong di chúc không có nội dung về việc thừa kế theo di chúc của những
người đó.
4. Tư vấn người quản lý di sản thờ cúng
Theo nghĩa thông
thường thì người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng đồng thời cũng là người
đảm nhận việc thờ cúng tổ tiên...
Theo nghĩa thông
thường thì người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng đồng thời cũng là người
đảm nhận việc thờ cúng tổ tiên. Trong đời sống người Việt thì gần như gia đình
nào cũng có bàn thờ tổ tiên trong nhà và đến những dịp giỗ kỵ, lễ tết hoặc tuần
rằm mùng một thì việc thờ cúng thường được thực hiện. Ngườithực hiện việc thờ
cúng trong những trường hợp trên thường là người chủ trong gia đình, có thể là
người cha hoặc người mẹ và hoạt động thờ cúng trên đôi khi cũng chỉ là thắp
hương trên bàn thờ, nhất là vào những ngày rằm hoặc mùng một thông thường. Tuy
nhiên, người thờ cúng đặt trong mối quan hệ với việc để lại di sản thờ cúng
theo di chúc thì được xác định rõ hơn và về bản chất pháp lý hoạt động thờ cúng
mang tính ràng buộc hơn và gắn với những ngày giỗ kỵ người để lại di sản thờ
cúng.
Theo quy định của Điều
670 Bộ luật dân sự năm 2005, thì có hai loại người quản lý di sản dùng vào việc
thờ cúng, đó là, người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng được người để lại
thừa kế chỉ định rõ trong di chúc và người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng do những người thừa kế cử ra.
1. Về người quản lý di
sản dùng vào việc thờ cúng được chỉ định trong di chúc
Tại Điều 389 Quốc
triều hình luật quy định: “Các quan đại thần cùng các quan viên cho đến thường
dân, phàm con cháu, giữ việc phụng sự hương hỏa, thì không kể tuổi lớn nhỏ,
phẩm trật cao thấp, phải theo lệ thường, ủy cho người con trưởng của vợ cả. Nếu
người con cả chết trước, thì lấy người cháu trưởng; nếu không có người cháu
trưởng, thì mới lấy người con thứ. Nếu người vợ cả không có con trai khác, thì
mới chọn lấy người con nào tốt của vợ lẽ. Nếu người con trưởng, cháu trưởng có
tật nặng hay hư hỏng, không thể giữ việc thờ cúng được, thì phải trình quan sở
tại để chọn người khác thay. Nếu trái luật thì cho người trưởng họ được cáo tỏ
ở các nha môn để tâu lên, sẽ khép vào tội bất hiếu bất mục trái bỏ điển lễ” và
“Người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con
trai trưởng thì dùng con gái trưởng, ruộng đất hương hỏa thì cho lấy một phần
hai mươi”
Như vậy, quy định của
Quốc triều hình luật về người thờ cúng, được xây dựng theo hướng đề cao gần như
tuyệt đối vai trò của người con trai trưởng, và ưu tiên dòng các con trai theo
quan hệ huyết thống nội tộc nhưng cũng thừa nhận quyền của người con gái trưởng
được quản lý di sản thờ cúng và thờ cúng cha mẹ. Ảnh hưởng của chế độ gia đình
phụ hệ gia trưởng và thừa nhận chế độ hôn nhân đa thê từ thời kỳ phong kiến nên
các nhà xây dựng Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ dân luật Trung kỳ vẫn tiếp thu các
quy định của Bộ quốc triều hình luật về việc xác định người thờ cúng, theo
hướng ưu tiên con trai trưởng, và cũng thừa nhận người con gái trưởng có quyền
“đứng ăn hương hỏa để phụng tự”.
Xuất phát từ những
những tư tưởng dân chủ trên thế giới, thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng
quyền con người và kết quả của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên ngay
sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 97/SL
ngày 22/5/1950 quy định: “Vợ và chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình” và
“Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”. Nguyên tắc này đã được ghi
nhận trong các bản Hiến Pháp sau này nên trong Điều 670 nhà làm luật đã không
quy định người thờ cúng phải là con trai trưởng hoặc theo hướng ưu tiên con
trai mà để dành quyền chủ động cho người lập di chúc, bất cứ người con hoặc
cháu nào không phân biệt con trưởng hay con thứ, con trai hay con gái thậm chí
cả người không có quan hệ huyết thống (tất nhiên điều này ít xảy ra) cũng có
thể là người quản lý di sản thờ cúng nếu được người để lại di sản chỉ định
trong di chúc. Một vấn đề đặt ra liệu những người thuộc trường hợp không được
quyền hưởng di sản - bị truất quyền hưởng thừa kế (Điều 643 Bộ luật dân sự năm
2005) có được phép là người quản lý di sản thờ cúng không. Giải quyết vấn đề
này, cần chia ra hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất,
nếu người lập di chúc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng không biết người mà
mình chỉ định quản lý di sản thờ cúng có những hành vi mà theo quy định của
pháp luật sẽ bị truất quyền thừa kế thì những người thừa kế của người để lại di
sản có quyền yêu cầu tòa án buộc người đã được chỉ định quản lý di sản thờ cúng
giao lại di sản thờ cúng.
- Trường hợp thứ hai,
nếu người để lại di sản thờ cúng đã biết người có hành vi mà theo quy định sẽ
bị truất quyền hưởng di sản thừa kế nhưng vẫn giao di sản thờ cúng cho họ thì
cần công nhận theo ý chí của người để lại di sản.
2. Người quản lý di
sản dùng vào việc thờ cúng không được chỉ định trong di chúc mà do những đồng
thừa kế cử ra
Điều 670 Bộ luật dân
sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định
người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di
sản thờ cúng...". Như vậy, cần xác định ai là những người có quyền cử
người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng? Theo nội dung điều luật thì nhà
làm luật quy định “những người thừa kế” nghĩa là bao gồm cả những người thừa kế
theo pháp luật và những người thừa kế theo di chúc. Nếu những người thừa kế
theo pháp luật đồng thời là người thừa kế theo di chúc thì những người này đã
được xác định rõ tên tuổi, vị trí trong quan hệ với người lập di chúc và những
người này thống nhất cử ra một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp người
thừa kế theo pháp luật khác với những người thừa kế theo di chúc thì trước hết
phải xác định những người thừa kế theo pháp luật là những người nào? Pháp luật
thừa kế quy định về diện và hàng thừa kế, diện thừa kế bao gồm tất cả những
người theo quy định của pháp luật được hưởng thừa kế của người để lại di sản,
còn hàng thừa kế quy định về thứ tự người được nhận di sản thừa kế, gồm hàng
thừa kế thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai, hàng thừa kế thứ 3. Về nguyên tắc, chỉ
khi không có người ở hàng thừa kế thứ nhất hoặc những người ở hàng thừa kế thứ
nhất đều từ chối nhận di sản thì mới xem xét đến những người ở hàng thừa kế thứ
hai. Như vậy, trong việc xác định ai là người có quyền cử người quản lý di sản
thờ cúng thì trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật cần phải
xác định những người ở hàng thừa kế thứ nhất trước (nếu hàng thừa kế thứ nhất
không còn ai thì sẽ đến hàng thừa kế thứ hai, rồi hàng thứ 3...), nhưng cũng
cần phải nhận thức rằng dù là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng lại rơi
vào trường hợp bị truất quyền hưởng di sản thì những người này không được phép
tham gia vào việc bàn bạc cử người quản lý di sản thờ cúng, bởi lẽ, họ mất
quyền hưởng di sản thừa kế thì cũng mất quyền tham gia giải quyết việc thừa kế
nói chung và cử người quản lý di sản thờ cúng nói riêng. Thờ cúng là sự bày tỏ
lòng biết ơn, tôn kính đối với tổ tiên còn những người đã thực hiện hành vi bị
pháp luật quy định thuộc trường hợp không được hưởng thừa kế thì bản chất những
người này đã thể hiện sự không tôn kính, biết ơn đối với tổ tiên nên không thể
được tham gia vào việc cử người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Tuy nhiên, trường hợp
phải cử một người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thì cần phải đặt ra vấn
đề những người như thế nào để được giao quản lý di sản thờ cúng? Người được
giao quản lý di sản thờ cúng bắt buộc phải chọn trong số những người thừa kế ở
hàng thứ nhất và những người thừa kế theo di chúc hay có thể chọn một người ở
hàng thừa kế thứ hai? Bộ luật dân sự năm 2005 không có giải pháp cho trường hợp
này. Nghiên cứu Điều 670 và Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 676 quy định
về người thừa kế theo pháp luật) cho thấy, trong trường hợp phải cử người quản
lý di sản thờ cúng thì người được giao quản lý di sản thờ cúng phải chọn trong
số những người thừa kế theo di chúc và những người thừa kế theo pháp luật ở
hàng thứ nhất; còn những người tuy ở hàng thừa kế thứ nhất nhưng lại thuộc
trường hợp bị truất quyền hưởng di sản thì không thể được giao quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng, bởi vì những người này đã có những hành vi thể hiện về
mặt đạo đức sự không tôn kính người để lại di sản. Bên cạnh đó, những người
chưa thành niên, người không có năng lực hành vi hay bị hạn chế năng lực hành
vi dù ở hàng thừa kế thứ nhất hay là người được thừa kế theo di chúc cũng không
thể được giao quản lý di sản thờ cúng. Còn lại những người thừa kế không thuộc
các trường hợp trên thì có thể được giao quản lý di sản thờ cúng bất kể là con
trai hay con gái, con trưởng hay con thứ.
Khi xem xét để cử
người quản lý di sản thờ cúng cần lưu ý đến một thực tế, chúng ta không thể phủ
nhận sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong đời sống văn hóa, tinh thần của
người Việt và những tập quán, phong tục (đã được ghi nhận trong luật cổ) đã ăn
sâu vào tiềm thức của người Việt, đó là sự thừa nhận đương nhiên vai trò của
người con trai trưởng và việc quản lý di sản thờ cúng cũng như việc thờ cúng
được ưu tiên chuyển cho các con trai theo huyết thống nội tộc. Hiện nay, xã hội
phát triển, con trai hay con gái, con trưởng hay con thứ đều bình đẳng như nhau
và pháp luật đều bảo hộ nhưng trong đời sống thực tế của người Việt, vai trò,
trách nhiệm của người con trưởng nhìn chung vẫn được nhìn nhận đánh giá cao
hơn, thể hiện ở trong sinh hoạt hàng ngày nhất là những công việc liên quan tới
quan hệ đối nội (quan hệ trong nội tộc) và quan hệ đối ngoại (quan hệ với hàng
xóm, láng giềng). Ngày nay, mỗi dịp giỗ tết thì người con trai trưởng vẫn là
người đứng ra làm giỗ, dù người chị gái hoặc người em có giữ chức vụ quan trọng
thì dịp giỗ tết vẫn thường đến nhà anh trưởng để làm giỗ cha mẹ, vẫn phải góp
giỗ... bởi vì họ chịu sự điều chỉnh của những quy phạm đạo đức, tập quán truyền
thống của người Việt nhiều khi có giá trị cao hơn pháp luật. Việc người con
trai trưởng thờ cúng, giỗ kỵ cha mẹ tổ tiên cũng là phương cách để củng cố quan
hệ gia đình, tăng cường sự đoàn kết giữa các anh chị em.
Mặt khác, khi xem xét
cử người quản lý di sản thờ cúng cũng cần xét đến những điều kiện trong thực tế
để đảm bảo cho người quản lý di sản thờ cúng thực hiện được việc thờ cúng thuận
lợi đó là những điều kiện về mặt địa lý, thời gian và về mặt kinh tế. Do đó,
nên chăng cần bổ sung trong trường hợp những người thừa kế cử người quản lý di
sản thờ cúng hoặc trường hợp phải thay đổi người quản lý di sản thờ cúng thì
cần quy định theo hướng: Việc giao người quản lý di sản thờ cúng cần ưu tiên
theo quy định của tập quán, phong tục trong trường hợp tập quán không rõ ràng
thì khi cử người quản lý di sản thờ cúng cần xem xét đến các điều kiện về địa
lý, thời gian và điều kiện kinh tế của người sẽ được giao quản lý di sản thờ
cúng.
Như đã phân tích ở
trên những người thừa kế ở hàng thứ nhất mà bị truất quyền hưởng di sản thừa kế
thì cũng không được tham gia cử người quản lý di sản thờ cúng và không được
giao quản lý di sản thờ cúng. Nhưng vấn đề đặt ra, trong trường hợp những người
thừa kế theo di chúc và những người thừa kế theo pháp luật hàng thứ nhất không
có điều kiện quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thì liệu con của người bị
truất quyền hưởng thừa kế có được giao quản lý di sản thờ cúng không? Như đã
biết, thờ cúng là sự bày tỏ lòng thành kính biết ơn đối với tổ tiên, cầu mong
tổ tiên che chở, trợ giúp. Như vậy, bất cứ con cháu nào cũng có quyền bày tỏ
lòng thành kính, biết ơn đối với công lao của tổ tiên. Thờ cúng cũng nhằm mục
đích củng cố tình cảm, sự đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình nên nếu
như người cha có những hành vi bị pháp luật truất quyền hưởng thừa kế, không
được tham gia vào việc cử người quản lý di sản thờ cúng của ông bà, không được
giao quản lý phần di sản để thờ cúng thì cũng không có nghĩa là người con (là
cháu của người để lại di sản) mất quyền thờ cúng ông bà, tổ tiên vì đây là đạo
lý, cha mẹ cháu có thể là người hư hỏng nhưng không có nghĩa là cháu cũng bị
coi là hư hỏng theo. Nghiên cứu các quy định của Luật cổ cho thấy, Điều 392
Quốc triều hình luật quy định: “Người con trưởng nếu hư hỏng hay bị tật nặng
không thể giữ việc thờ cúng, thì cha mẹ đem phần hương hỏa giao cho con thứ
giữ, và phải theo lệnh của cha mẹ. Nếu người con thứ không có con trai mà người
con trưởng bất tiếu ([2]) hay bị phế tật lại có con trai, cháu trai, thì phần
hương hỏa ấy trước lại giao về cho con trưởng ấy”[3]. Không bàn đến tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” hay phân biệt giữa con trưởng với con thứ thì người Việt
cổ cũng đã đưa ra được giải pháp đảm bảo cho trường hợp những người thừa kế ở
hàng thứ nhất không có điều kiện quản lý di sản thờ cúng thì có thể giao cho
người ở hàng thừa kế thứ hai quản lý di sản thờ cúng. Như vậy, trong trường hợp
có người ở hàng thừa kế thứ nhất bị truất quyền hưởng thừa kế, không được tham
gia cử người quản lý di sản thờ cúng để dùng vào việc thờ cúng mà những người
thừa kế còn lại không có điều kiện quản lý di sản thờ cúng thì con của người bị
truất quyền hưởng thừa kế có thể được giao quản lý di sản thờ cúng nếu không có
những hành vi đồng phạm với người bị truất quyền hưởng thừa kế.
3. Quyền và nghĩa vụ
của những người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng
Việc xác định quyền và
nghĩa vụ của những người thờ cúng là một vấn đề quan trọng, bởi việc thờ cúng
có thực hiện trên thực tế hay không, ý chí của người để lại di sản thờ cúng có
được biến thành hiện thực không đều phụ thuộc vào người thờ cúng. Như vậy, để
đảm bảo người thờ cúng thực hiện theo di chúc thì cần phải chỉ ra người thờ
cúng có những quyền lợi và những nghĩa vụ gì. Trên cơ sở xác định quyền và
nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thì mới chỉ ra được
những căn cứ pháp lý để từ đó xem xét người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền, nghĩa vụ chưa? có hoàn thành nghĩa vụ
không? Từ đó mới có thể đánh giá và xác định người quản lý di sản dùng vào việc
thờ cúng có thể bị thay đổi không khi có yêu cầu thay đổi. Điều 670 Bộ luật dân
sự năm 2005 không chỉ ra người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng có những
quyền và nghĩa vụ gì mà nhà làm luật mới chỉ dừng lại ở quy định: “nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế, thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”. Dường như khi xây dựng quy định
này, nhà làm luật trao việc xác định quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản
thờ cúng cho người lập di chúc và những người thừa kế (trong trường hợp người
lập di chúc không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng). Tuy nhiên, bất cứ
một thỏa thuận xác định quyền và nghĩa vụ của một người như thế nào đòi hỏi
phải phù hợp với chuẩn mực chung về mặt pháp luật và đạo lý. Do vậy, nếu trong
trường hợp có sự tranh chấp trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của người thờ
cúng thì cần phải có một cơ chế để giải quyết tranh chấp này - đó là Tòa án -
nhưng để đưa ra được phán quyết thì Tòa án cần phải dựa vào những tiêu chí đã
được đạo đức chung của xã hội thừa nhận và đã được luật hóa thành các tiêu chí
mang tính chuẩn mực và có giá trị bắt buộc mọi người phải thực hiện, nói cách
khác là Tòa án phải xem xét xem người thờ cúng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
chưa và có được hưởng quyền lợi không? hưởng quyền lợi như thế nào? chứ không
thể dựa vào ý chí của một bên để xác định bên kia vi phạm. Việc nhà làm luật
không xác định quyền và nghĩa vụ của người thờ cúng, dù chỉ ở mức độ mang tính
nguyên tắc chung là chưa đầy đủ và không phù hợp với thực tế, bởi lẽ, nghĩa vụ
thờ cúng là nghĩa vụ mang tính ý thức, tinh thần nhưng nó cũng đòi hỏi người
quản lý di sản phải bỏ ra chi phí (làm cỗ...) và cũng đòi hỏi phải tốn kém thời
gian, công sức và cả chi phí nữa. Như vậy, người quản lý di sản phải được hưởng
những lợi ích vật chất gì vừa để chi dùng cho việc thờ cúng vừa để chi phí cho
công sức của bản thân bỏ ra (dù chỉ một phần) từ đó mới có động lực để thực
hiện nghĩa vụ quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Về việc xác định nghĩa
vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng, thông thường khi lập di
chúc người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng không bao giờ chỉ ra người quản
lý di sản thờ cúng phải làm những việc cụ thể như thờ cúng như thế nào, thờ
cúng vào những thời gian cụ thể nào trong tháng, trong năm, ngày thờ cúng thì
vào buổi trưa hay chiều, lễ vật dâng lên bàn thờ tổ tiên phải có những gì, phải
mời những ai tham dự... Pháp luật cổ xưa cho đến nay và cả tập quán cũng không
đòi hỏi người lập di chúc phải chỉ rõ những việc cần làm cho người thờ cúng mà
chỉ dừng lại ở mức độ người lập di chúc chỉ ra những phần tài sản dùng để thờ
cúng mình và tổ tiên. Bên cạnh đó, người được giao quản lý di sản thờ cúng và
chịu trách nhiệm thực hiện việc thờ cúng không phải chỉ có một việc thờ cúng tổ
tiên, dành hết thời gian, công sức vào việc thờ cúng tổ tiên và chắc chắn họ
cũng không thể sống được chỉ bằng một nguồn thu nhập là một phần được trích ra
từ nguồn lợi thu được từ phần tài sản dành để thờ cúng. Người được giao quản lý
di sản thờ cúng cũng phải bỏ thời gian, công sức ra lao động để nuôi sống bản
thân và gia đình và thực tế diễn biến cuộc sống của mọi người nói chung, người
quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng nói riêng luôn biến động. Điều 670 trao
quyền xác định quyền, nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng cho những
người thừa kế, vậy, trong trường hợp những người thừa kế thỏa thuận giao cho
một người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng nhưng thỏa thuận của những
người này dù không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không xâm phạm
quyền lợi của người thứ 3 nhưng lại không phù hợp (hoặc ban đầu thì phù hợp
nhưng sau lại không phù hợp do tình hình thay đổi) với điều kiện của người được
giao quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng dẫn đến người đang quản lý di sản dùng
vào việc thờ cúng thực hiện không được như mong muốn của những người thừa kế.
Những người thừa kế lấy lý do người được giao quản lý di sản thờ cúng đã thực
hiện không đúng theo thỏa thuận, không đúng di chúc để yêu cầu thay đổi thì căn
cứ nào để xem xét yêu cầu xin thay đổi của những người thừa kế là phù hợp hay
không. Do vậy, pháp luật cần thiết phải quy định về quyền và nghĩa vụ của người
quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Nghiên cứu các quy
định của luật cổ cho thấy, trong Quốc triều hình luật xuất phát từ quy định
việc thờ cúng tổ tiên là một nghĩa vụ bắt buộc, việc chuyển giao phần hương hỏa
luôn ưu tiên theo hướng cho các con trai theo huyết thống nội tộc. Việc thờ
cúng tổ tiên là sự biểu hiện đồng thời chứng minh cho việc thực hiện chữ “Hiếu”
nên dường như người quản lý di sản thờ cúng nói riêng và những người thừa kế
nói chung chỉ có nghĩa vụ chứ không có quyền và khi thực hiện đúng, đầy đủ
những nghi lễ để tang, thờ cúng được đánh giá tích cực và trong quan niệm của
người Việt cổ đó lại chính là cách chứng minh tốt nhất của người con với người
ngoài, đã báo hiếu cha mẹ. Để đảm bảo cho chữ “Hiếu” được thực hiện thì Quốc
triều hình luật đã quy định một loạt các cách thức, thời gian để tang khi người
thân mất, đó là “Biểu đồ để tang 9 bậc họ nội : “ 1- Kỵ tổ ông kỵ tổ bà: Để
tang Tự thôi 3 tháng. 2- Cụ tổ ông cụ tổ bà: Để tang Tự thôi 5 tháng... 3- Cha
mẹ để tang Trảm thôi 3 năm, có chống gậy”[4]... Ngoài các quy định về hình thức
để tang thì bộ Quốc triều hình luật còn quy định về tội “Bất Hiếu” là một trong
10 tội ác (Thập ác), có nội dung: “Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha
mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy
chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu, không
cử ai( [5]); nói dối là ông bà cha mẹ chết”[6]. Bộ luật Gia long cũng có các
quy định tương tự như Quốc triều Hình luật. Trong Bộ luật dân sự Bắc kỳ và Bộ
dân luật Trung kỳ (Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật), nhà làm luật đã xây dựng các
quy phạm pháp luật định rõ quyền và nghĩa vụ của người thờ cúng, ví dụ: Điều
thứ 422 Bộ dân luật Bắc kỳ quy định: “Người ăn hương hỏa được hưởng lợi về tài
sản hương hỏa, được thu hoa lợi tự nhiên và hoa lợi về hộ luật do của hương hỏa
sinh ra; và phải hưởng thụ của hương hỏa như người chủ nhà gìn giữ của nhà mình
vậy”; Điều thứ 427 quy định: “Người ăn hương hỏa phải làm những việc sửa sang
thường. Lại phải làm cả những những việc sửa sang lớn, nhưng chỉ chiểu theo số
lợi tức mình được hưởng sau khi đã trừ đi số tiền chi tiêu mình phải chịu về
việc phụng tự mà thôi. Khi lợi tức hương hỏa không đủ chi thì có thể xin hội
đồng gia tộc bổ cấp cho. Phàm vật kiến trúc lâu ngày đổ nát, hoặc bị sự ngẫu
nhiên phá hủy, thì người ăn hương hỏa không bắt buộc phải làm lại”; Điều thứ
429 quy định: “Người ăn hương hỏa phải lấy lợi tức của hương hỏa và chiểu theo
hạn số lợi tức ấy mà chi mọi khoản phí tổn về việc phụng tự cùng việc coi giữ
phần mộ. Người ăn hương hỏa được lấy một phần trong lợi tức ấy để chi tiêu cho
mình”... Bộ luật dân sự Trung kỳ cũng quy định tương tự tại các Điều thứ 431,
Điều thứ 436, Điều thứ 437, Điều thứ 438. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của
người quản lý di sản thờ cúng quy định trong luật cổ cần phải được xem xét kế
thừa khi pháp điển hóa Bộ luật dân sự.
4. Căn cứ thay đổi người
quản lý di sản dùng vào việcthờ cúng và người có quyền yêu cầu thay đổi người
quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng
Căn cứ thay đổi người
quản lý di sản thờ cúng được hiểu là những căn cứ làm chấm dứt quyền quản lý
của người đang quản lý di sản thờ cúng. Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định: “nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo
thỏa thuận của những người thừa kế, thì những người thừa kế có quyền giao phần
di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”. Cũng như
việc xác định quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng
thì Điều 670 cũng không chỉ ra những căn cứ để thay đổi người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng mà dành cho người lập di chúc và những người thừa kế.
Như vậy, phải căn cứ vào nội dung di chúc hoặc thỏa thuận của những người thừa
kế khi cử người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thì mới biết được căn cứ
để thay đổi người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Nếu như người lập di
chúc lại chỉ xác định trong di chúc người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng
chứ không nói rõ nội dung cần thực hiện và trường hợp những người thừa kế cũng
chỉ thỏa thuận xác định người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thì lấy
tiêu chí nào để đánh giá nếu xảy ra yêu cầu thay đổi. Trước hết có thể xác định
việc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng không ngoài mục đích để thờ cúng,
việc thờ cúng này ít nhất cũng phải thực hiện trong dịp giỗ kỵ hàng năm. Như
vậy, nếu như người được giao quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng cả một năm
không thờ cúng gì thì chắc chắn là vi phạm nghĩa vụ thờ cúng và phải bị thay
đổi. Tuy nhiên, có những trường hợp do công việc riêng của người quản lý di sản
thờ cúng bận rộn hoặc do lý do nào đấy mà hoạt động thờ cúng không được tiến
hành thì cũng cần phải có quy định phân hóa những trường hợp này. Do đó, ngoài
lý do người quản lý di sản thờ cúng bỏ hẳn cả năm, nhiều năm không thực hiện
việc thờ cúng là căn cứ để thay đổi mà ai cũng nhận thấy thì cần thiết phải xây
dựng những căn cứ khác nữa để thực hiện thay đổi người quản lý di sản thờ cúng.
Nghiên cứu các quy
định của Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ dân luật Trung kỳ về vấn đề này đều có quy
định về các căn cứ để xác định người quản lý di sản thờ cúng vi phạm nghĩa vụ
thờ cúng tại các Điều thứ 420 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều thứ 429 Bộ dân luật
Trung kỳ, cụ thể các căn cứ đó gồm: - Người thờ cúng bỏ hẳn việc thờ cúng; -
Không có duyên cớ chính đáng mà quá lười biếng về trách nhiệm phụng tự; - Bất
hiếu; - Đạo mại của hưởng hỏa; - Bị án về tội đại hình. Xem xét các căn cứ để
thay đổi người quản lý di sản thờ cúng có thể thấy những căn cứ trên hoàn toàn
thể hiện được yêu cầu đảm bảo cho việc thờ cúng được thực hiện theo đúng ý chí
của người để lại di sản đồng thời cũng phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp
luật.
Về việc xác định những
người có quyền giao di sản thờ cúng cho người khác quản lý. Điều 670 Bộ luật
dân sự năm 2005 xác định “những người thừa kế” nghĩa là bao gồm cả người thừa
kế theo pháp luật và những người thừa kế theo di chúc. Những người thừa kế theo
di chúc thì luôn được xác định cụ thể trong di chúc còn với những người thừa kế
theo pháp luật là tất cả những người trong diện thừa kế theo pháp luật nhưng
tất yếu và trước hết phải là những người ở hàng thừa kế thứ nhất vì điều này
tương tự như trường hợp xác định người thừa kế có quyền cử người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng khi người lập di chúc không chỉ định trong di chúc.
Do những điều kiện về
lịch sử từ khi giành được độc lập cho đến khi Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh
thừa kế là hơn 40 năm, chúng ta lại tiếp tục ghi nhận vấn đề di sản dùng vào
việc thờ cúng trong một đạo luật, từ quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng
trong Pháp lệnh thừa kế đến quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng trong Bộ
luật dân sự đã đánh dấu một sự phát triển về mặt lập pháp, thể hiện sự coi
trọng hơn, ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật một tín ngưỡng trong đời sống văn
hóa tinh thần của người Việt Nam, góp phần bảo tồn và phát triển kho tàng văn
hóa dân tộc. Tuy nhiên, qua việc phân tích ở trên thì chúng ta thấy quy định về
di sản dùng vào thờ cúng ở Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn chưa phù hợp
với tình hình thực tiễn của đời sống xã hội, điều này được thể hiện ở các điểm
sau: Quy định tại Điều 670 Bộ luật dân sự chỉ cho phép di sản thờ cúng được “sống”
trong một khoảng thời gian cùng với thời gian sống của những người có tên trong
di chúc, quy định này đã hạn chế ý chí của người để lại thừa kế dù việc để lại
di sản thờ cúng đó hoàn toàn đúng pháp luật và trong sáng và quy định này cũng
không phù hợp với phong tục, tín ngưỡng truyền thống.
- Quy định tại Điều
670 Bộ luật dân sự 2005 không xác định được quyền, nghĩa vụ của người quản lý
di sản thờ cúng, không xác định cơ chế dịch chuyển di sản thờ cúng, các căn cứ
pháp lý để xác định di sản thờ cúng bị triệt tiêu và không bảo vệ được quyền
lợi của người thứ 3 trong trường hợp bị thiệt hại, không thiết lập khả năng cho
phép di sản thờ cúng tham gia một số giao dịch để đảm bảo duy trì di sản thờ
cúng cũng như quyền lợi của những người thừa kế.
- Việc ghi nhận một
phong tục, một tín ngưỡng của người Việt bằng việc xây dựng lên Điều 670 Bộ
luật dân sự năm 2005 là một sự đảm bảo của Nhà nước cho quyền tự do tín ngưỡng
của người dân nhưng quá trình làm luật đã không kế thừa được những giá trị nhân
bản của phong tục thờ cúng tốt đẹp của người Việt mà vẫn mang ý chí áp đặt của
nhà làm luật chứ chưa xuất phát từ thực tiễn cuộc sống nên nó khó có tính khả
thi trong quá trình áp dụng.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|