1.
Hôn nhân trước ngày 3 - 1- 1987 và phân chia tài sản chung.
Câu hỏi:
Tình trạng gia đình cần giải quyết
như sau: Bố tôi có 3 người vợ, 4 người con: Vợ cả (mẹ tôi) sống với bố tôi từ
năm 1968 từ trong kháng chiến chống mỹ, có 2 người con nhưng không có giấy hôn
thú. Năm 1970 Bố tôi bị thương và ra bắc lại lấy người thứ 2, không có giấy hôn
thú nhưng có 2 người con.
Đến năm 1980 bố tôi lại lấy người
thứ 3, không có con nhưng có giấy hôn thú. Tình trạng hôn nhân của bố tôi: Đến
tháng 8 năm 2016 bố tôi và người vợ thứ 3 ra tòa ly hôn, tòa xử đồng ý ly hôn
nhưng tài sản do 2 người tự giải quyết (theo đề nghị của bố tôi và vợ thứ 3).
Tuy nhiên trong lúc chưa chia được tài sản thì bố tôi bệnh nặng, hiện giờ mất
khả năng dân sự (hôn mê 7 tháng). Xin Luật sư vui lòng giải thích giúp tôi các
câu hỏi sau:1/ Khi tòa xử lý việc ly hôn giữa bố tôi và người vợ thứ 3 nhưng
không đề cập đến vợ cả và vợ thứ 2 trong phân chia tài sản là có đúng không hay
còn thiếu sót.2/ Trong trường hợp này Mẹ tôi và người vợ thứ 2 có được pháp
luật công nhận là vợ và có quyền thừa hưởng tài sản khi bố tôi mất (hiện tòa đã
xử đồng ý ly hôn nhưng chưa phân chia tài sản) 3/ Tôi phải làm gì để có cơ sở
tòa xử lại việc chia tài sản cho mẹ tôi và người vợ thứ 2 trong trường hợp này
vì bố tôi hiện đang bệnh mất khả năng.Tôi chân thành cám ơn Luật sư và rất mong
nhận được sự quan tâm của Luật sư.
Luật sư Gia Đình trả lời:
Cảm ơn bạn
đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến Văn Phòng Luật Sư Gia Đình. Chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:
Căn cứ theo thông tư số 60/TATC
thông tư hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân gia đình của cán
bộ, bộ đội đã có vợ, có chồng trong nam tập kết ra bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
Và theo khoản 4 thông tư liên tịch
số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định thì: ““Người đang có vợ hoặc có
chồng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là
người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người đã kết hôn với người khác
theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc
không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên
bố là đã chết;
b) Người xác lập quan hệ vợ chồng
với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn
hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị
tuyên bố là đã chết;
c) Người đã kết hôn với người khác
vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã
được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc
vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.”
Bố bạn thuộc đối tượng cán bộ miền
Nam tập kết ra bắc lấy vợ khác do đó khi cả hai người vợ của bố bạn có mong
muốn về sống chung, sum họp thì Tòa án sẽ công nhận mối quan hệ hôn nhân của cả
hai là hợp pháp. Nếu một trong hai bên có yêu cầu giải quyết ly hôn thì Tòa án
vẫn giải quyết dựa trên quyền và lợi ích của hai bên và các con.
Tại thời điểm bố bạn sống chung với
bà thứ nhất và bà thứ hai đã đủ điều kiệ kết hôn theo quy định của pháp luật,
ba người vẫn thực hiện sống chung và không có yêu cầu giải quyết ly hôn hoặc
không có sự kiện một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì mối quan
hệ hôn nhân của bố bạn và hai người này là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ. Việc bố ban đăng ký kết hôn với người thứ ba là trái quy định của
pháp luật. Hai người vợ trước của bố bạn có quyền yêu cầu Tòa án hủy đăng ký
kết hôn và buộc chấm dứt cuộc sống chung.
Nếu khi bố bạn và hai người trước
chung sống như vợ chồng nhưng tại thời điểm sống chung không đủ điều kiện kết
hôn và sau đó thực hiện đăng ký kết hôn với người vợ thứ ba thì mối quan hệ hôn
nhân của bố bạn và người thứ ba là hợp pháp.
Căn cứ theo Điều 33 Luật hôn nhân
gia đình 2014 quy định về tài sản chung theo đó tài sản được hình thành trong
thời kì hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp
tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng. Khi ly hôn vợ chồng có quyền thỏa thuận phân
chia hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ly hôn và giải quyết chia tài sản là
vụ việc dân sự pháp luật tôn trọng ý chí và sự thỏa thuận của hai bên do đó Tòa
án chỉ đứng ra phân chia tài sản nếu hai bên không thỏa thuận được, tài sản
đang tranh chấp tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi bố bạn và
người vợ thứ ba ly hôn tự thỏa thuận phân chia tài sản và không có yêu cầu Tòa
án giải quyết do đó Tòa án không giải quyết là đúng với quy định của pháp luật.
Nếu sau khi ly hôn các bên không
thỏa thuận được hoặc có tranh chấp thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu
chia tài sản chung. Nếu như mối quan hệ hôn nhân giữa bố bạn và hai người vợ
trước được công nhận thì hai người này sẽ được phân chia theo diện là tài sản
chung của vợ chồng. Trong trường hợp không mối quan hệ hôn nhân này không được
công nhận thì có thể yêu cầu Tòa án phân chia theo công sức đóng góp (nếu có).
Căn cứ theo Điều 651 Bộ luật dân sự
2015 thì những người được hưởng di sản thừa kế là những người ở hàng thừa kế
thứ nhất bao gồm bố mẹ, vợ chồng và các con. Do đó nếu bố bạn mất không để lại
di chúc thì bốn người con của bố bạn và hai người vợ của bố bạn (nếu được công
nhận là có mối quan hệ hôn nhân pháp được pháp luật thừa nhận) sẽ được hưởng di
sản thừa kế do bố bạn mất để lại; trong trường hợp mối quan hệ hôn nhân giữa bố
bạn và hai người vợ trước không được công nhận thì hai người này sẽ không được
hưởng di sản thừa kế và bà ba đã làm thủ tục ly hôn nên không được hưởng di sản
thừa kế do bố bạn mất để lại. Mỗi người sẽ được hưởng một phần bằng nhau trong
khối di sản thừa kế. Các bên có quyền thỏa thuận để phân chia di sản thừa kế
hoặc khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết.
2.
Trường hợp nào được công nhận hôn nhân thực tế?
Hôn nhân thực tế là gì?
Hiện nay, hôn nhân thực tế có rất
nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên hầu hết các quan điểm đều yêu cầu hai bên
nam nữ đáp ứng đầy đủ hai điều kiện sau:
– Về hình thức: Hai bên chung sống
với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà không đăng ký kết hôn.
– Về nội dung: Hai bên nam, nữ phải
tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình.
Như vậy, nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng và được công nhận là hôn nhân thực tế phải đáp ứng cả điều kiện về
nội dung và hình thức.
Cơ sở pháp lý về hôn nhân thực tế
Liên quan đến việc xác nhận tình
trạng hôn nhân đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ
trước ngày 03/01/1987 nhưng không đăng ký kết hôn, hiện tại, hai bên không còn
tiếp tục chung sống nữa. Tại khoản 2 điều 44 nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định:
Điều 44. Điều khoản chuyển tiếp
2. Đối với trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết
hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân
được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ
chồng. Thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn được thực hiện theo quy định tại
Điều 17 và Điều 18 của Luật Hộ tịch.
Đồng thời, khoản 1 Điều 131 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 quy định “Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập
trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình
tại thời điểm xác lập để giải quyết”.
Tại mục 3 nghị quyết 35/2000/QH10
hướng dẫn luật HNGĐ 2000 quy định rõ việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11
của Luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn;
trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì đượcTòa án thụ lý giải quyết theo quy
định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như
vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày 01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ
điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn
trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 1
năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly
hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà
họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c) Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001
trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết
này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều
không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ
lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài
sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 để giải quyết.
Theo quy định tại điểm a khoản 3
Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội thì “Trong trường hợp
quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến
khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ
lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”.
Như vậy, đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau trước ngày
03/01/1987, hiện họ chưa đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ
chồng (hôn nhân thực tế).
Đồng thời, theo hướng dẫn tại điểm c
mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 thì
“Được coi là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
– Có tổ chức lễ cưới khi về chung
sống với nhau;
– Việc họ về chung sống với nhau
được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;
– Việc họ về chung sống với nhau
được người khác hay tổ chức chứng kiến;
– Họ thực sự chung sống với nhau,
chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống
với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với
nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống
với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu
chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình”.
Do đó, trường hợp hai bên chung sống
với nhau như vợ chồng trước thời điểm ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn,
do vậy sẽ áp dụng quy định của Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của
Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Thông tư số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết
số 35/2000/QH10 để xem xét tính hợp pháp của quan hệ chung sống giữa hai bên.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|