1. Vợ giấu chồng rút tiền tiết kiệm chung khi
ly hôn xử lý thế nào ?
Chào luật sư, Xin hỏi
quý luật sư, tôi là sỹ quan trong quân đội được hơn 6 năm. Thu nhập một tháng
khoảng 7,5 triệu. Tôi kết hôn với vợ đã được hơn 3 năm. Trước khi kết hôn tôi
có tích cóp được số tiền là 80 triệu đồng. Sau khi kết hôn tôi bàn giao toàn bộ
số tiền tích cóp được cho vợ tôi giữ, từ ngày kết hôn với nhau đến nay vợ tôi
vẫn chưa tìm được việc làm ổn định. Qua quá trình làm ăn đến nay, chúng tôi đã
tích cóp được khoảng hai trăm triệu. Số tiền ấy do vợ tôi đứng tên gửi tiết
kiệm, nhưng gần đây vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, vì vậy chúng tôi thuận tình ly
hôn. Nhưng cách đây mấy ngày vợ tôi che giấu tôi rút toàn bộ tiền tiết kiệm ở
ngân hàng mà tôi không biết.
Luật sư cho tôi hỏi
nếu ra toà giải quyết ly hôn thì phần tài sản đó được giải quyết như thế nào ạ
?
Tôi xin chân thành cảm
ơn !
Luật sư Gia Đình trả
lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn
đã gửi nội dung câu hỏi cần được tư vấn. Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin
được trả lời như sau:
Điều 33 luật Hôn nhân
và Gia đình 2014 quy định về Tài sản chung của vợ chồng, như sau:
“1. Tài sản chung của
vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều
40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung…”
Khoản 1 Điều 40 luật
Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, trừ trường hợp đã chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân hoặc vợ,chồng được tặng cho riêng, thừa kế riêng, thì
tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân bao gồm cả hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Thời
điểm bắt đầu của thời kỳ hôn nhân là thời điểm đăng ký kết hôn.
Thứ nhất, Theo thông
tin bạn cung cấp, thì khoản tiền 200 triệu là khoản tiền mà cả 2 vợ chồng bạn
tích góp được, kể cả khoản tiền 80 triệu trước khi kết hôn mà bạn tự nguyện
đóng góp vào khối tài sản chung. Nên đây là tài sản được hình thành trong thời
kỳ hôn nhân, vì vậy thuộc sở hữu chung của cả 2 vợ chồng. Về số tiền lãi gửi tiết
kiệm mà vợ chồng bạn nhận được hàng tháng cũng được xác định là tài sản chung
của vợ chồng.
Thứ hai, mặc dù người
vợ là người đứng tên trong sổ tiết kiệm, nhưng phần tài sản này là tài sản
chung của vợ chồng. Bởi vậy, người vợ không có quyền với toàn bộ phần tài sản
này. Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Nguyên tắc giải
quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Theo đó, nếu vợ chồng không có thỏa
thuận khác thì về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ được chia
đôi.
Trường hợp vợ bạn tự ý
rút toàn bộ tiền tiết kiệm ở ngân hàng mà không hỏi ý kiến bạn là sai. Bạn có
thể yêu cầu Tòa án giải quyết để yêu cầu vợ của bạn gửi lại 1 nửa số tài sản
tiết kiệm vợ đã rút cho bạn hoặc yêu cầu phần nhiều hơn nếu bạn chứng minh được
công sức đóng góp của bạn vào khối tài sản chung này nhiều hơn vợ theo quy định
tại điểm b, khoản 2 Điều 59 luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
2. Vợ giấu tài sản chung khi ly hôn thì phải
làm như thế nào?
Tôi kết hôn hồi đầu
năm 2014, cuộc sống hôn nhân cũng diễn ra êm đềm, gia đình tôi có một con trai.
Từ đó tới nay, mọi tài sản của gia đình tôi đều giao cho vợ quản lý. Tiền
lương, thưởng tôi cũng đưa vợ giữ rồi bỏ vào sổ tiết kiệm chung của vợ chồng.
Tới gần đây, tôi phát hiện vợ giấu tôi lấy tiền đem về cho anh em nhà vợ, tôi
có hỏi thì vợ cứ chối phăn đi, đã vậy còn không ngớt lời chửi mắng tôi ích kỷ
này nọ. Nhiều lần như vậy, tôi không thể chấp nhận nổi nên đã quyết định ly hôn
với cô ấy. Khi ra tòa ly hôn, cô ấy chỉ khai rằng tài sản chung có nhà cửa, xe
và một ít tiền trong ngân hàng. Nhưng tôi nắm rất rõ, tài sản chung mà vợ chồng
tôi tạo lập có một khoản tiền rất lớn trong ngân hàng nhưng cô ấy cố tình giấu
đi, chỉ trình ra có một phần nhỏ trong số đó. Tôi yêu cầu tòa điều tra, xác
minh lại nhưng tòa lại nói rằng muốn vậy thì chính tôi phải trình ra chứng cứ
chứng minh chứ tòa không có nghĩa vụ xác minh lại nữa. Xin hỏi, tòa nói thế có
đúng không? Trường hợp của tôi phải giải quyết thế nào?
Luật sư Gia Đình tư
vấn:
Tòa án yêu cầu bạn
phải cung cấp chứng cứ chứng minh là đúng với quy định của pháp luật hiện hành
vì theo Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì: Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa
án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp,
trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng
khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ
chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người
lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài
liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động
quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp
tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi
kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng
lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc
trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy
định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng
lao động.
Như vậy, Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 quy định rất rõ ràng nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ
trong các tranh chấp dân sự là nghĩa vụ của đương sự chứ không phải là nghĩa vụ
của tòa án. Tòa án chỉ có thể thu thập chứng cứ khi các chứng cứ có trong hồ sơ
vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết trong khi đương sự không thể tự mình
thu thập được.
Trong trường hợp trên,
để được chia tài sản thì anh phải chứng minh là vợ mình là người đã cất giữ
hoặc gửi giữ tiền vàng của vợ chồng. Tài sản ấy là bao nhiêu, ở đâu, có biên
nhận, giấy thỏa thuận gì không? Có ai làm chứng không? Nếu gửi ở ngân hàng thì
bằng chứng là sổ tiết kiệm, thẻ tín dụng hoặc mã số các loại sổ hoặc thẻ đó...
Nếu đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu thì bằng chứng là bản sao chụp trái phiếu,
cổ phiếu hoặc các chứng từ, biên nhận có liên quan...
3. Giấu chồng mảnh đất cha mẹ cho, khi ly hôn
có phải chia tài sản?
Trong thời kỳ hôn
nhân, người vợ được bố mẹ đẻ tặng cho một mảnh đất. Nếu chị giấu không cho
chồng biết thì khi ly hôn, mảnh đất đó có được tính là tài sản riêng của người
vợ hay không?
2 năm sau khi kết hôn,
chị Ngân được bố mẹ đẻ cho một mảnh đất nhưng giữ bí mật không nói cho chồng
biết. Nay do vợ chồng mâu thuẫn nên chị Ngân có ý định ly hôn. Khi kê khai tài
sản để làm thủ tục trước tòa, chồng chị mới biết đến sự tồn tại của mảnh đất
này. Vậy bất động sản được cho, tặng trong thời kỳ hôn nhân đó có được coi là
tài sản chung của vợ chồng hay không?
Trường hợp 1: Toàn bộ
giấy tờ về việc tặng cho đất đều ghi rõ chỉ tặng riêng cho vợ hoặc chỉ tặng
riêng cho chồng
Điều 43 Luật Hôn nhân
và Gia đình 2014 quy định: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi
người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại
các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ,
chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng”.
Như vậy, nếu giấy tờ
về việc tặng cho đất ghi rõ chỉ tặng riêng chị Ngân, thì mảnh đất đó là tài sản
riêng của chị. Chồng chị sẽ không được hưởng bất cứ quyền lợi gì từ mảnh đất
này và chị Ngân là người toàn quyền sử dụng, định đoạt tài sản đó.
Trường hợp 2: Toàn bộ
giấy tờ về việc tặng đất không ghi rõ là tặng riêng hay tặng chung cho cả vợ và
chồng
Nếu giấy tờ tặng cho
đất không chỉ đích danh người được tặng là chị Ngân, thì mảnh đất này sẽ được
tính là tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, khi ly hôn, tài sản
chung này sẽ được ưu tiên phân chia theo nguyên tắc tự thỏa thuận. Trong trường
hợp vợ chồng không đạt được thỏa thuận thì sẽ áp dụng cách chia theo quy định
tại Điều 62 Luật Hôn nhân gia đình về chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi
ly hôn.
Đối với đất nông
nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản:
• Nếu cả hai bên đều
có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của
hai bên. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa phân chia dựa trên hoàn cảnh gia
đình; công sức đóng góp; lỗi của các bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng...
• Trường hợp chỉ một
bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử
dụng, nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ
được hưởng.
• Trường hợp vợ chồng
có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng
đất của vợ chồng được tách ra và chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của
Tòa án.
Đối với đất nông
nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở:
Phân chia dựa trên
hoàn cảnh gia đình,công sức đóng góp, lỗi của các bên trong vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng,…
4. Giải quyết các tình huống về chia tài sản
chung khi ly hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Xin hỏi luật sư, chị
gái tôi bị chồng làm đơn ly hôn ra Tòa. Tòa án thành phố đã có thông báo thụ lý
hồ sơ giải quyết ly hôn. Trong phiên hòa giải, chồng chị tôi muốn thỏa thuận
chia tài sản với chị tôi nhưng về nhà anh ta không hợp tác, chỉ chia bằng miệng
mà không tiến hành làm các thủ tục sang tên.
Tài sản chung của vợ
chồng chị tôi gồm 4000 m2 đất của bố mẹ chồng cho. 5000 m2 ruộng đã có bìa đỏ
đứng tên cả hai vợ chồng. Bìa đỏ được cấp năm 2011. Ngôi nhà 100m2 được xây
trên mảnh đất 4000m2 đã có sổ đỏ nhưng vì ở nông thôn không cần giấy phép xây
dựng. Xin hỏi luật sư: Bây giờ vợ chồng chị tôi ly hôn thì hai tài sản đó sẽ
được chia như thế nào? Ghi chú là chị tôi và anh rể có hai con gái, đứa lớn 18
tuổi và đứa bé 15 tuổi.
Chị tôi đề nghị nhờ
Tòa phân chia tài sản hộ nhưng chồng chị không đưa bìa đỏ cho và không nộp lên
Tòa thì phải làm thế nào? Nếu Tòa phân chia thì án phí sẽ tính thế nào? Trường
hợp chồng chị giấu bìa đỏ đi và làm lại chứng nhận bìa đỏ chỉ đứng tên anh ta
thì có được không vì đất đó được tách nhượng cho từ bố mẹ anh ta? Xin cảm ơn
luật sư!
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất, trường hợp
chồng giấu bìa đỏ đi và làm lại chứng nhận bìa đỏ chỉ đứng tên chồng thì có
được không?
Điều 33 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng
tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân
(trừ trường hợp tài sản đã chia trong thời kì hôn nhân và hoa lợi, lợi tích tạo
ra từ tài sản đó), tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà
vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp
vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua
giao dịch bằng tài sản riêng.
Trong trường hợp không
có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản
riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, quyền sử đụng
đối với mảnh đất 4000m2 mà vợ chồng anh chị bạn được bố mẹ chồng tặng cho là
trong thời kì hôn nhân, mặt khác người chồng không có giấy tờ, thỏa thuận về
việc đó là tài sản tặng cho riêng hay đó là tài sản riêng, do vậy, đây cũng là
tài sản chung của vợ chồng.
Đối với việc sửa đổi
tên trong Giấy chứng nhận quyền sử đất từ hai người thành một người khi chưa có
bản án ly hôn của Tòa án tức là tài sản này nếu được sửa đổi tên là do chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân. Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn
biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“Trong trường hợp tài
sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia
phần tài sản bằng hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại
giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn
bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài sản chung.”
Điều này có nghĩa là,
vợ hoặc chồng chỉ có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng kí lại quyền sử
dụng mảnh đất đứng tên từ hai người thành một người nếu có văn bản thỏa thuận
của vợ chồng hoặc Quyết định chia tài sản chung của Tòa án. Do đó, trường hợp
của bạn, người chồng không thể tiến hành xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên một mình anh ta được.
Thứ hai, tài sản đó
được chia như thế nào?
Khoản 2 Điều 33 Luật
HN&GĐ quy định rõ “Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất,
được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng”, tức là tài sản này chỉ thuộc quyền sử dụng của hai vợ chồng mà không
liên quan gì đến các con.
Theo quy định tại Điều
59 Luật HN&GĐ, về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi,
tuy nhiên nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia
đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp
của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao
động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có
điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên
trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ
chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo
giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình
được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Tài sản riêng của vợ,
chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào
tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự
sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu
về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào
khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Đối với tài sản chung
là Quyền sử dụng đất, việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn được thực hiện như sau (Điều 62):
– Đối với đất nông
nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu
và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai
bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại
Điều 59 Luật HN&GĐ.
Trong trường hợp chỉ
một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp
tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà
họ được hưởng;
– Đối với đất nông
nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia
theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ;
– Đối với loại đất
khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
Thứ ba, trường hợp
người chồng không đồng ý chia tài sản, không đưa ra Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì làm thế nào?
Tại phiên tòa giải
quyết ly hôn, Tòa án sẽ chia tài sản dựa trên sự thỏa thuận của các bên, trường
hợp vợ chồng không thỏa thuận được, hoặc đã thỏa thuận nhưng muốn thay đổi thì
Tòa án sẽ tiến hành chia tài sản theo luật định.
Nếu trường hợp người
chồng không đồng ý chia tài sản, Tòa án sẽ yêu cầu người chồng nộp những giấy
tờ, tài liệu cần thiết để tiến hành thủ tục ly hôn. Trong trường hợp không thu
thập được tài liệu của đương sự thì Tòa án có trách nhiệm tiến hành thu thập từ
các cơ quan hữu quan.
Trường hợp sau khi đã
có bản án của Tòa án, bản án đã có hiệu lực pháp luật, trong một thời hạn nhất
định mà người chồng vẫn không tiến hành các thủ tục tách thửa, sang tên quyền
sử dụng đất thì người vợ nộp đơn yêu cầu thi hành án đến cơ quan thi hành án
dân sự. Lúc này cơ quan thi hành án dân sự sẽ có văn bản gửi cho người chồng
buộc phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu trong thời hạn quy định, người chồng không
thực hiện thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc người
chồng thực hiện nghĩa vụ.
5. Vợ có được chia tài sản khi ly hôn nếu ở
nhà nội trợ?
Vợ chồng anh T.T.H (32
tuổi; ở Quận 3-Hồ Chí Minh) kết hôn được 5 năm và có một con nhỏ 3 tuổi. Anh H
đi làm, còn chị V (vợ anh H) ở nhà nội trợ.
Do cuộc sống hôn nhân
trục trặc, anh H bày tỏ mong muốn được ly hôn. Gửi câu hỏi cho tòa soạn, người
đàn ông này băn khoăn nếu phải ra tòa, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn
nhân sẽ được chia như thế nào?
Giải đáp thắc mắc này,
luật sư Trần Minh Hùng (Trưởng Văn Phòng Luật Sư Gia Đình) nhận định, dù chị V
không có thu nhập, khối tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân vẫn được tính
là tài sản chung của vợ chồng.
Khoản 1, Điều 33 Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 quy định, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do
vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ
hôn nhân, được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Do đó, tài sản do mình
anh H tạo ra được xác định vào khối tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp
hai người có thỏa thuận khác theo các trường hợp tại Khoản 1, Điều 28 luật này.
Về nguyên tắc, tài sản
chung của vợ chồng được chia đôi nhưng sẽ tính tới các yếu tố quy định tại
Khoản 2, Điều 59 như hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp
của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, hay
lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Điều 7 Thông tư liên
tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định “công sức đóng góp của vợ, chồng
vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về
tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong
việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Vợ hoặc chồng ở nhà
chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương
đương với thu nhập của người đi làm. Ngoài ra, nếu công sức đóng góp nhiều hơn
sẽ được chia nhiều hơn.
Như vậy, chị V là
người thực hiện công việc nội trợ, trông nom con cái, chăm sóc gia đình. Chị
không có thu nhập hằng tháng nhưng vẫn được tính là có thu nhập tương đương với
thu nhập của anh H và vẫn được chia tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn
nhân.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật sư
Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia
Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài
truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an
ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp
VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên
Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời
sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân
dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật
TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL,
Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy
tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|