Điều 139. Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành
vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến ba năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên
nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng
danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản
có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả
nghiêm trọng. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu
đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai
mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu
đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm.
chị có thể xem cấu thành
tội này ở dây cho dễ hiểu:Để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi
vi phạm phải đáp ứng các yếu tố: “dùng thủ đoạn gian dối” và “chiếm đoạt tài
sản của người khác”. Cụ thể hơn, 4 yếu tố cấu thành tội phạm (Khách thể của tội
phạm; Chủ thể của tội pham; Mặt khách quan của tội phạm; Mặt chủ quan của tội
phạm) được thể hiện như sau: 1. Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người
khác. 2. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. 3. Mặt
khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng
định đoạt tài sản đó một cách gian dối. Đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối
làm cho người có tài sản tin là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người
có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này
là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. a. Về hành vi: Có hành vi dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản: - Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông
tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao
tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách
khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động và bằng
nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản. - Chiếm
đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản
của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền
và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối Lưu ý: thời điểm
hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài
sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc
người quản lý tài sản bị mắc lừa gia tài sản cho kẻ phạm tội hoặc không nhận
tài sản đáng lẽ phải nhận. Cấu thành tội chiếm đoạt tài sản - Dấu hiệu bắt buộc
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối
để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt
(chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành
vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép
hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự. Như vậy, thủ
đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm 2 dấu hiệu là: (1)
Người phạm tội đã có hành vi gian dối như bằng lời nói, hành động hoặc những
thủ đoạn khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc (nói dối, trái
sự thật, nói không thành có, nói ít thành nhiều, tẩy xóa con số để được nhiều
hơn) … ; (2) Chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm tưởng, tin vào các
thông tin không đúng sự thật đó nên đã tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu hoặc
quyền quản lý tài sản cho người phạm tội. Thỏa mãn 2 yếu tố này mới cấu thành
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. b. Dấu hiệu khác Về giá trị tài sản chiếm đoạt:
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên Nếu dưới hai triệu
đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bi kết án về tội chiếm đoạt tài
sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên
mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản
của tội này. 4. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm
đoạt tài sản của người khác do mình thực hiện hành vi là gian dối, trái pháp
luật. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị
chiếm đoạt trái pháp luật và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Người phạm tội thực
hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Về mặt ý chí của người phạm tội lừa đảo bao giờ
cũng nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo,
đây là điểm phân biệt cấu thành tội lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản. Vì trong
một số trường hợp phạm tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bao giờ ý
định chiếm đoạt tài sản cũng phát sinh sau khi nhận tài sản thông qua một hình
thức giao dịch nhất định Ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn gian dối và
hành vi chiếm đoạt tài sản. thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước khi
tiến hành giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội. Nếu sau khi có
được tài sản hợp pháp mới phát sinh thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì
không coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng (
như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản)
|