Tội đánh bạc được quy định tại Điều 248
Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì giá trị tiền hoặc hiện vật
dùng để đánh bạc là từ 2.000.000 đồng (2 triệu đồng) sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Còn theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2016 thì giá trị tài sản dùng để đánh bạc đã thay đổi từ 2 triệu đồng lên
5.000.000 đồng (5 triệu đồng), cụ thể điều luật quy định như sau:
1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào
được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này
hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này
hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000
đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng.
Áp
dụng Nghị quyết số: 109/2015/QH13
ngày 27/11/2015 của Quốc hội tình tiết có lợi cho bị can bị cáo: Điều 1
1. Kể từ ngày 01
tháng 07 năm 2016, Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Bộ luật
hình sự năm 2015) được áp dụng như sau:
a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm
2016;
b) Các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, xóa bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi
cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra
trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện,
đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời
hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
Áp dụng quy định mới, với hành vi đánh
bạc dưới 5 triệu đồng, ngày 29/3, TAND Tối cao ra Công văn
80/TANDTC-PC hướng dẫn xử lý như sau. Người thực hiện hành vi đánh
bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật dưới 5
triệu đồng, thuộc một trong các trường hợp: chưa bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi này hoặc tổ chức đánh bạc; chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ
chức đánh bạc; đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc nhưng đã được
xóa án tích sẽ bị xử lý theo hai hình thức.
Từ ngày 9/12/2015 đến hết 30/6/2016, nếu
vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ Điều
25 Bộ luật hình sự 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Từ 1/7/2016, nếu
hành vi vi phạm mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng Bộ luật
hình sự 2015 để tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
Theo quy định
tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng
thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều
249 của Bộ luật Hình sự, “đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực
hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà
không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép
được cấp.
Khi xác định
trách nhiệm hình sự với người đánh bạc thì không tính tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ từng lần
để xem xét. Cụ thể như sau:
a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện
vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu
trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường
hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy
định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm)
thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc;
b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện
vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu
trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;
c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở
lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở
lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc
với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều
48 của Bộ luật hình sự;
d) Trường hợp đánh bạc từ 5 lần trở lên
mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc
trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên)
và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung
“có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật
hình sự.
Như vậy, số tiền
hoặc giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc là căn cứ để truy cứu
trách nhiệm hình sự (mức tối thiểu là từ 2.000.000 đồng trở lên). Việc xác định
chính xác số tiền này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội. Về nội
dung này, Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP quy định: “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh
bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu
giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong
người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những
nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
Như vậy, ngoài
tiền và hiện vật sử dụng để chơi bạc (được trực tiếp tại chiếu bạc), những tài
sản trên người gồm cả tiền và hiện vật bị cơ quan chức năng thu giữ mà “có căn
cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc” thì cũng sẽ được xác định là
tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc. Nếu tổng số tiền thu được trực tiếp tại chiếu
bạc cùng với số tiền, hiện vật thu giữ trên người (và chứng minh được là sẽ sử
dụng để đánh bạc) từ 2.000.000 đồng trở lên thì bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội Đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự; số tiền,
hiện vật này sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Căn cứ theo quy định trên thì cơ quan công an được quyền kiểm
tra trong người của những người con bạc.
Việc cơ quan công an còng tay người đánh bạc khi họ không chống
đối, đánh đập họ là điều pháp luật cấm. Không có bất kỳ quy định nào cho phép
công an được đánh người. Hơn nữa, theo quy định pháp luật một người chưa bị coi
là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án nên khi chưa có bất kỳ bản
án nào tuyên án họ có tội thì họ vẫn là công dân bình thường và chưa được coi
họ là tội phạm.
Trong mọi trường hợp việc đánh đập hay bắt giữ người khác trái
pháp luật là điều pháp luật cấm, tình trạng này dẫn tới dễ bị oan sai, ép cung,
nhục hình. Đây là hành vi rất khó chấp nhận và cần xử lý nghiêm những cán bộ có
hành vi sai trái nêu trên.
|