Khái niệm chủ thể kinh doanh không được thể hiện rõ trong luật về mặt pháp lý nhưng nó thể hiện hành vi kinh doanh của chủ thể kinh doanh được hiểu theo nghĩa thực tế và pháp lý là những pháp nhân hay thể nhân thực hiện trên thực tế những hành vi kinh doanh.
Để trở thành chủ thể kinh doanh thì yêu cầu pháp nhân, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện đó là phải thực hiện hành vi kinh doanh mà cụ thể hành vi đó phải: mang tính chất nghề nghiệp; diễn ra trên thị trường; diễn ra thường xuyên, liên tục; có mục đích sinh lợi.
Về khái niệm chủ sở hữu doanh nghiệp cũng chưa có một quy định nào của pháp luật về khái niệm này. Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.” Ngoài ra, từ khái niệm về chủ sở hữu theo quy định tại Điều 164 Bộ luật dân sự thì có thể hiểu chủ sở hữu doanh nghiệp là cá nhân hoặc một số cá nhân, pháp nhân đứng tên trên Giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp, là người thành lập, điều hành doanh nghiệp và có đủ 3 quyền năng cơ bản của một chủ sở hữu nói chung đó là chiếm hữu, sử dụng và định đoạt hay nói cách khác là quyền thành lập, hoạt động, giải thể doanh nghiệp.
Ví dụ về chủ sở hữu doanh nghiệp:Chủ sở hữu Công ty TNHH hai thành viên có thể là Giám đốc công ty, Hội đồng cổ đông là chủ sở hữu công ty Cổ phần
Như vậy, nếu chỉ có hành vi kinh doanh thì đã được coi là chủ thể kinh doanh thì để trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp đòi hỏi phải đáp ứng được các điều kiện pháp lý nhất định như: tiên doanh nghiệp đó là là thương nhân và được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 đối với mỗi hình thức doanh nghiệp nhất định. |