Như vậy, nếu người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc vì không biết đọc, biết viết hoặc vì lý do nào khác mà nhờ người khác viết hộ di chúc thì di chúc này buộc phải có người làm chứng. Người lập di chúc phải đọc cho người khác viết hộ di chúc trước mặt những người làm chứng. Di chúc viết xong phải do người làm chứng đọc to cho mọi người nghe. được người lập di chúc thừa nhận là di chúc viết hộ ghi đầy đủ và phù hợp với ý nguyện của người để lại di sản. Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng, nếu điểm chỉ thì trong di chúc phải ghi rõ lý do không ký được. Những người làm chứng xác nhận chữ kí hoặc xác nhận điểm chỉ của người lập di chúc và kí tên vào bản di chúc với danh nghĩa người làm chứng. Thiếu một trong các điều kiện này thì bản di chúc sẽ không có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, không phải bất kì ai cũng có thể là người làm chứng việc lập di chúc của người khác mà người làm chứng phải thỏa mãn được điều kiện quy định tại điều 654: “Mọi người có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những trường hợp sau:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc.
3. Người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự”.
Theo đó, người làm chứng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự (từ đủ 18 tuổi, không tâm thần hoặc không mắc các bệnh khác mà không làm chủ được hành vi của mình). Người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc không được làm chứng việc lập di chúc. Ngoài ra, người làm chứng không phải là người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới nội dung của di chúc. Những người thừa kế, các chủ nợ, các con nợ của người lập di chúc không thể làm chứng việc lập di chúc của người để lại di sản. Bởi vì, những người này có thể vì lợi ích của mình mà doạ nạt, lừa dối người lập di chúc khiến cho người lập di chúc không hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong việc chỉ định người thừa kế và di sản để lại cho người thừa kế.
Ngoài ra, di chúc văn bản có người làm chứng còn phải lập theo qui định tại Điều 653 là di chúc phải có nội dung rõ ràng, phải có ngày, tháng năm lập di chúc, họ tên, nơi cư trú của người lập di chúc, họ tên người được hưởng di sản, di sản để lại và nơi có di sản…
Di chúc có người làm chứng rất khó nhận biết về ý chí của người để lại di sản, vì người lập di chúc không tự viết để thể hiện ý chí tự mình viết bản di chúc, mà ý chí tự nguyện của người để lại di sản phải thông qua người khác thực hiện khác biệt với di chúc không có người làm chứng.
Pháp luật cũng không qui định điều kiện nào liên quan đến người viết hộ di chúc, do đó ai cũng có thể viết hộ di chúc, không có qui định ngăn cấm như Điều 654 đối với người làm chứng việc lập di chúc.
Còn việc ký tên, điểm chỉ là dấu ấn duy nhất để xác định ý chí tự nguyện của người lập di chúc, thì di chúc này khó có thể coi là hợp pháp và như vậy di chúc khó mà thực hiện được. Trường hợp này phải do tòa án có thẩm quyền giải quyết, nếu có tranh chấp.