Quy định góp vốn bằng đất được điều chỉnh chủ yếu bắng bốn văn bản pháp luật là Bộ Luật dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2013, Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013 và Luật Doanh nghiệp năm 2014. Trong quá trình áp dụng văn bản pháp luật cho thấy có 02 điểm không tương thích phát sinh từ 04 văn bản pháp luật vừa liệt kê.
Thứ nhất, nên dùng thuật ngữ pháp lý “góp vốn bằng quyền sử dụng đất” hay “góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”? Các văn bản pháp luật đã sử dụng thuật ngữ một cách không đồng nhất gây lúng túng và khó khăn về mặt hiểu nghĩa cho người áp dụng. Cụ thể:
Luật Doanh nghiệp hiện hành định nghĩa Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập (khoản 13, điều 4); tài sản góp vốn có thể là giá trị quyền sử dụng đất (điều 35). Theo điều 36 của luật này, người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, (i) tài sản là giá trị quyền sử dụng đất có thể dùng để góp vốn vào doanh nghiệp, (ii) quyền sử dụng đất đó phải chuyển từ người góp vốn sang cho công ty và (iii) quyền sử dụng đất góp vốn trở thành tài sản của công ty còn người góp vốn trở thành chủ sở hữu công ty.
Luật Đất đai quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất chứ không phải là bằng giá trị quyền sử dụng đất. Theo khoản 10 điều 3 của luật này, góp vốn bằng quyền sử dụng đất là một trong những cách thức để chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác.
Khoản 1 điều 99 của luật cũng nói rõ rằng người nhận góp vốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên nhận góp vốn, dù là tổ chức kinh tế trong nước hay doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, sẽ có các quyền của một người sử dụng đất thông thường được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần hay nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (điều 174, 177 và 184). Nhưng khác với luật cũ, Luật Đất đai mới không còn quy định về các trường hợp chấm dứt việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất nữa. Điều này đã làm cho Luật Đất đai gần hơn với quy định của Luật Doanh nghiệp liên quan đến vấn đề góp vốn bằng đất.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai mới. Nghị định này lại liệt kê các trường hợp chấm dứt việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất, ví dụ như: khi hết thời hạn góp vốn; theo thỏa thuận của các bên; khi bên góp vốn bị phá sản, giải thể; hay khi cá nhân góp vốn chết.Tức là, theo Nghị định 43, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất có thể bị chấm dứt và khi đó bên góp vốn, tùy từng trường hợp, có thể sẽ được nhận lại quyền sử dụng đất của mình.
Bộ luật Dân sự hiện hành, tại điều 727 cũng quy định về hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Bộ luật Dân sự cũng quy định rằng bên góp vốn được nhận lại đất theo thỏa thuận hoặc khi thời hạn góp vốn đã hết. Ngoài ra, bên nhận góp vốn sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu là pháp nhân trừ trường hợp góp vốn trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Cách sử dụng thuật ngữ của Luật Đất đai chính xác hơn bởi vì quyền sử dụng đất là một loại tài sản có thể dùng để góp vốn, còn giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng một diện tích đất nhất định trong thời hạn sử dụng đất xác định, chỉ để tính toán khi góp vốn, chuyển nhượng hoặc bồi thường khi thu hồi đất. Tức là không phải góp vốn bằng “giá trị” mà là góp vốn bằng quyền sử dụng một mảnh đất và quyền đó có giá trị nhất định.
Thứ hai, góp vốn bằng đất có thể bị chấm dứt hay không?Tùy thuộc vào hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà xác định việc góp vốn có thể bị chấm dứt hay không.
Cần phải phân biệt hai trường hợp: góp vốn theo kiểu hợp đồng hợp tác kinh doanh và góp vốn để trở thành chủ sở hữu công ty (tức là góp vốn để trở thành thành viên công ty TNHH, công ty hợp danh hay cổ đông công ty cổ phần).
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích...luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|