Luật sư gia đình
Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....
                                   LS TRẦN MINH HÙNG - Trưởng Hãng Luật Gia Đình
 
 
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật sư chuyên tư vấn pháp luật thừa kế tại quận bình tân
Một Việt kiều khởi kiện cháu trai ra Tòa vì không đòi được đất nhờ đứng tên
 Quy định chung khi lập di chúc thừa kế
Luật sư chuyên tư vấn pháp luật thừa kế tại quận bình tân
TRANH CHẤP THỪA KẾ CÓ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Những rủi ro pháp lý doanh nghiệp thường gặp
Luật sư chuyên về kinh tế
Thừa kế là gì, di sản thừa kế là gì, cách xác định di sản thừa kế
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tranh Tụng Tại Tphcm
luật sư tư vấn nhà đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Tư Vấn Kỹ Năng Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
luật sư nhà đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
luật sư chuyên nhà đất tại tphcm
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
luật sư nhà đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Hãng Luật Uy Tín Về Nhà Đất Thừa Kế Tại Việt Nam
luật sư doanh nghiệp
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
luật sư nhà đất
luật sư tư vấn
luật sư doanh nghiệp
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
luật sư doanh nghiệp
luật sư doanh nghiệp
luật sư thừa kế
luật sư doanh nghiệp
luat su nha dat
luật sư tư vấn chia tài sản khi ly hôn
luật sư thừa kế
luat su nha dat
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư ly hôn
luật sư doanh nghiệp
luat su tu van ly hon
luật sư nhà đất
luat su nha dat
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư trả lời báo chí
luật sư nhà đất
luật sư riêng cho công ty
luật sư tư vấn tại tphcm
luật sư bào chữa tại tòa về kinh tế
luật sư doanh nghiệp
luật sư nhà đất
luật sư riêng
hình báo
ls
kinh tế
tranh tụng
nhà đất
hình tu van tại nhà
luật sư nhà đất
hung1
hinh luat su
luat su
luat su
luat su
Hình 1
Hình 2
Hình 3

HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ

Luật sư tư vấn tranh chấp thừa kế tại tphcm
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
luật sư thừa kế
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
luật sư công ty
luật sư thừa kế nhà đất
Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Hợp Đồng
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư nhà đất thừa kế ly hôn doanh nghiệp
luật sư tư vấn ly hôn
luật sư nhà đất
luật sư thừa kế
ls
Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện

Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện

25/04/2015
 
 

Cụ ông Trần Đình L, sinh năm 1920 và cụ bà Tăng Thị K, sinh năm 1922, có với nhau 03 người con là ông Trần Đình A, ông Trần Đình Q và bà Trần Thị Hồng S. Cụ L chết tháng 4/1982, cụ K chết tháng 12/2004 đều không để lại di chúc, sau khi hai cụ qua đời, ông A và vợ là bà H tiếp tục quản lý và sử dụng khối di sản của hai cụ để lại là ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2, thể hiện trên bản đồ địa chính của địa phương thửa đất của hai cụ để lại nằm tại vị trí số 2, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại số 28, khu phố 4, đường N.T.T., phường M, thành phố B (chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở)

Ngày 04/8/2006, ông Trần Đình Q khởi kiện ông A yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L và cụ K để lại; ngày 15/8/2006 ông A và bà H tự ý phá đi căn nhà cấp 4 nói trên. TAND thành phố B khi thụ lý đơn khởi kiện có căn cứ xác định: Đây là loại tranh chấp về quyền thừa kế di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất do người chết để lại không có di chúc, các đương sự không tranh chấp về hàng thừa kế nhưng không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2, mục 1, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (viết tắt Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP), hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Sau khi cụ L chết, cụ K tiếp tục quản lý, sử dụng ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2 mà không tu bổ gì thêm. Quá trình thu thập tài liệu hồ sơ vụ án, UBND phường M, thành phố B có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp và chưa kịp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ L và cụ K. Xoay quanh việc giải quyết nội dung tranh chấp này, có các quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất, ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2 không phải là di sản vì không thuộc trường hợp theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 và tiểu mục 1.3, mục 1, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, mà theo đó, tiểu mục 1.1 có quy định: “Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.”; tiểu mục 1.2 có hướng dẫn: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.; tiểu mục 1.3 có ghi rõ: “Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó …”. Bởi do hiện tại ngôi nhà cấp 4 là tài sản gắn liền trên đất đã bị phá bỏ, không tồn tại trên thực tế, nên trường hợp này phải vận dụng quy định tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết, đó là: “Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.”. Do vậy, Tòa án căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011): Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;”để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. Lập luận của quan điểm này nhấn mạnh, khi thụ lý vụ án di sản là ngôi nhà cấp 4 vẫn tồn tại, trong quá trình Tòa án xem xét để giải quyết ngôi nhà đó mới bị phá bỏ, nên phải xác định trường hợp này là không có di sản tồn tại trên đất và căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án do thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND theo quy định của pháp luật về đất đai.

Quan điểm thứ hai, thời hiệu khởi kiện đối với phần di sản thừa kế của cụ L vẫn còn, bởi căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”. Theo quan điểm này, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đối với trường hợp người để lại thừa kế chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai (LĐĐ) năm 1987, LĐĐ năm 1993, LĐĐ năm 2003 nhưng có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50[1] LĐĐ năm 2003 thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại từ ngày 01/7/2004, do vậy, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của các con cụ L vẫn còn và thời hiệu này phải đến hết ngày 01/7/2014.

Quan điểm thứ ba, trường hợp này không thuộc tiểu mục 1.4, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, vì di sản do hai cụ để lại đều được các đồng thừa kế thừa nhận và tồn tại cho đến ngày 15/8/2006 mới bị phá bỏ. Theo tiểu mục 3.3, mục 3 phần I Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tổng cục Địa chính, hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh chấp liên quan đền quyền sử dụng đất, có quy định: Nếu tranh chấp về tài sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với việc sử dụng đất đó, thì Toà án thụ lý giải quyết.”nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố B. Hơn nữa, di sản là ngôi nhà ở cấp 4 được xây dựng trên diện tích đất như trên đã đề cập vẫn chưa được những người thuộc hàng thừa kế của hai cụ định đoạt, để khắc phục việc vợ chồng ông A tự phá bỏ ngôi nhà này, Tòa án cần tạo điều kiện cho các đương sự khai báo, xác minh, thẩm định và đề nghị cơ quan chuyên môn có thẩm quyền xác định giá trị tài sản đã bị hủy hoại, bị hư hỏng theo tinh thần Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 làm căn cứ để giải quyết.

Quan điểm thứ tư, cụ L chết 4/1982, cụ K chết 12/2004, cả hai đều không để lại di chúc, do vậy, thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với phần di sản của cụ L để lại đã hết theo quy định tại Điều 645[2] BLDS năm 2005. Phần di sản ½ của cụ K trong khối tài sản chung của hai cụ được chia thừa kế theo pháp luật cho ba người con. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, thực chất đây là vụ án chia thừa kế theo pháp luật thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên phải tuân theo quy định tại Điều 645 BLDS để giải quyết. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, mà theo đó, thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế được hướng dẫn tại mục 2 phần I, còn việc xác định quyền sử dụng đất là di sản được hướng dẫn tại mục 1 phần II và nội dung hướng dẫn này có tính hồi tố về thực hiện quyền sử dụng đất chứ không có nghĩa được bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 165 BLDS năm 2005, về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự chỉ thuộc ba trường hợp sau:  a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hoà giải với nhau. Nên khi giải quyết vụ kiện này, Tòa án chỉ phân chia cho các đồng thừa kế phần di sản mà cụ K để lại trong khối di sản chung của hai cụ, riêng phần di sản của cụ L trong bản án cần giao quyền quản lý, sử dụng phần di sản đó cho người đang quản lý, sử dụng là vợ chồng ông A, đồng thời xác định quyền sở hữu đối với phần di sản đã hết thời hiệu theo Điều 247 BLDS.

Xoay quanh việc TAND thành phố B tiến hành phân chia phần di sản của cụ K để lại trong khối tài sản chung của hai cụ cho các đồng thừa kế, người viết không có ý kiến gì thêm. Riêng đối với các quan điểm khi bàn về việc giải quyết yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất mà thời hiệu khởi kiện đã hết, qua nghiên cứu người viết thấy rằng, trong trường hợp này có thể xem di sản của cụ L để lại là tài sản chung của các thừa kế, để từ đó tiến hành phân chia theo yêu cầu của các thừa kế trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành đối với tài sản chung, vì mấy lý do sau:

Một là, người viết đồng tình với nhận định của TAND thành phố B khi thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của ông Q, mà theo đó, thực chất đây là vụ án chia thừa kế theo pháp luật nên bản án, quyết định của Tòa án khi giải quyết nội dung đơn phải bảo đảm thỏa mãn yêu cầu chia di sản thừa kế, do cụ L chết 4/1982, cụ K chết 12/2004 nhưng đều không để lại di chúc. Đến ngày 04/8/2006 ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, tuy đã hết thời hạn là 10 năm theo quy định của pháp luật để các  thừa kế yêu cầu chia di sản kể từ thời điểm mở thừa kế (4/1982) khi cụ L mất, nhưng không vì thế mà Tòa án không giải quyết yêu cầu chia di sản theo lập luận như quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ tư, nếu dựa vào lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để bác yêu cầu chia di sản của cụ L cho các đồng thừa kế, trong khi giữa các đồng thừa kế đều thừa nhận đó là di sản của cha ruột họ để lại nhưng chưa chia là không hợp lý hợp tình để đưa đến công bằng, thật sự gây khó cho người dân, giải quyết không triệt để yêu cầu của đương sự một khi họ cần đến sự can thiệp của pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra sẽ xử lý như thế nào phần di sản của cụ L để lại, thẩm quyền giải quyết thuộc về cơ quan nào (TAND hay UBND)? Liệu việc tòa án không giải quyết với lý do đã hết thời hiệu khởi kiện, các nguyên đơn có thỏa mãn và không tiếp tục đi kiện nữa không? ...

Hai là, người viết cũng không đồng tình với quan điểm thứ hai cho rằng theo quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ L để lại vẫn còn và được tính từ ngày 01/7/2004. Ngày 01/7/2004 là ngày LĐĐ năm 2003 có hiệu lực thi hành, nhưng vì sao HĐTP TANDTC lại có hướng dẫn như quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP? Pháp luật về đất đai ở nước ta luôn có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội qua từng giai đoạn lịch sử, khi  LĐĐ năm 1987 đang còn hiệu lực, vào thời điểm đó, tại điểm a phần I nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế có quy định: “... đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không thể trở thành di sản khi công dân chết...”, nhưng khi Luật Đất đai (LĐĐ) năm 1993 ra đời, thì Nhà nước đã cho phép cá nhân có quyền để lại tài sản là quyền sử dụng đất cho người thừa kế, rồi đến LĐĐ năm 2003 và hiện nay LĐĐ năm 2013 quyền để lại thừa kế là quyền sử dụng đất tiếp tục được pháp luật thừa nhận. Chính vì lẽ đó, để xác định quyền sử dụng đất là di sản, tại các tiểu mục 1.1 và 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có hướng dẫn:

“1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”. Hơn nữa, tại điểm b, tiều mục 2.2, mục 2, phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có quy định rõ:“Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự”, nên cách hiểu thời hiệu thừa kế về quyền sử dụng đất trong vụ án này như quan điểm thứ hai rõ ràng là không đúng.

Ba là, ngày 04/8/2006, ông Trần Đình Q nộp đơn khởi kiện ông A đến TAND thành phố B để yêu cầu chia di sản thừa kế mà cụ L và cụ K để lại; ngày 15/8/2006 vợ chồng ông A tự ý phá bỏ đi căn nhà là di sản của bố mẹ để lại. Với những tình tiết này cho thấy, ngôi nhà cấp 4 là tài sản gắn liền trên đất, là di sản của cụ L và cụ K để lại được vợ chồng ông A quản lý, sử dụng cho đến khi phát sinh tranh chấp thừa kế (04/8/2006), nghĩa là vẫn tồn tại nguyên trạng như vốn có của nó từ khi cụ K mất cho đến khi vợ chồng ông A quyết định đập bỏ (15/8/2006) hay nói cách khác, tài sản là di sản mà hai cụ để lại như nguyên đơn trình bày là đúng với thực tế và theo đề nghị của nguyên đơn UBND phường M, thành phố B đã có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, không có tranh chấp và chưa kịp cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Do vậy trường hợp này theo quan điểm của người viết, TAND thành phố B cần áp dụng hướng dẫn tại điểm a[3], tiểu mục 1.3, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết vụ án, vì:

i) Tuy trước khi qua đời hai cụ K và L để lại quyền sử dụng 394 m2 đất tọa lạc tại địa chỉ số 28, khu phố 4, đường N.T.T., phường M, thành phố B được thể hiện trên bản đồ địa chính vị trí số 2, tờ bản đồ số 14, nhưng lại không có những giấy tờ theo quy định tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.

ii) Di sản thừa kế mà hai cụ để lại trong đó có ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất trên.

iii) Ông Trần Đình Q thuộc hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

iv) Theo đề nghị, UBND phường M, thành phố B có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, không có tranh chấp và chưa kịp cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Như vậy, TAND thành phố B phải giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất đó là phù hợp. Còn vấn đề để khắc phục việc vợ chồng ông A tự phá bỏ ngôi nhà là đối tượng phải giải quyết, người viết thấy rằng Tòa án cần tạo điều kiện cho các đương sự khai báo, thu thập thông tin, tiến hành xác minh, khuyến khích các bên tìm được tiếng nói chung, nếu cần thiết đề nghị cơ quan chuyên môn có thẩm quyền định giá trị tài sản ngôi nhà cấp 4 đó, theo quy định tại Điều 20[4] về định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn, của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Đây là loại tranh chấp di sản thừa kế tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất, tuy tại thời điểm giải quyết vì lý do nào đó mà tài sản trên đất không còn, từ đó, xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND tại địa phương nơi đương sự cư trú là không đúng với quy định của pháp luật, chưa quán triệt hết tinh thần hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP và như vậy sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn một khi bị đơn cố tình gây trở ngại cho việc giải quyết, thậm chí không bảo vệ được quyền lợi của nguyên đơn. Người viết cũng không đồng tình với quan điểm thứ ba, mà theo quan điểm này, căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tổng cục Địa chính, hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh chấp liên quan đền quyền sử dụng đất, để giải quyết mà hướng dẫn tại tiểu mục 3.3, mục 3 phần I của Thông tư liên tịch này so với hướng dẫn tại tiểu mục 1.3, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP gần như giống nhau về mặt nội dung và cùng đều là văn bản nằm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Vậy ưu tiên áp dụng văn bản nào? Theo quan điểm người viết, phải ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau. Điều này được thể hiện trong quyển Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật – Bài “ Tư vấn đàm phán, ký kết hợp đồng” của tác giả TS Phan Chí Hiếu (2012) - NXB Công an nhân dân, tr 237 có ghi: “Nếu các văn bản cùng có giá trị pháp lý thì ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau”.

Bốn là, những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ L được xác định là 04 người (gồm cụ K, ông A, ông Q và bà S). Cụ L chết không để lại di chúc, nên phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật. Từ thời điểm mở thừa kế đã làm phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa cụ L và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ, họ có các quyền và nghĩa vụ về tài sản do ông để lại. Theo quy định điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02, thì “... hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1….

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.

Trong vụ án này, tháng 4/1982 cụ L chết, tháng 12/2004 cụ K chết, ngày 04/8/2006 ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ mình để lại, như vậy từ thời điểm mở thừa kế chia di sản của cụ L để lại tính đến thời điểm phát sinh tranh chấp (04/8/2006) là khoảng 24 năm, trong khi đó hướng dẫn của Nghị quyết số 02 như vừa nêu trên quy định “sau khi kết thúc thời hạn mười năm”- Đây là thỏa mãn thứ nhấttrong suốt quãng thời gian đó (sau khi kết thúc thời hạn 10 năm) các đồng thừa kế gồm cụ K, ông A, ông Q và bà S không có tranh chấp về hàng thừa kế - Đây là thỏa mãn thứ hai;  các đồng thừa kế đều thừa nhận đó là di sản của cụ L để lại chưa chia - Đây là thỏa mãn thứ ba. Từ 03 điều kiện đều thỏa mãn như vừa phân tích, theo quan điểm của người viết, trường hợp này đủ điều kiện để coi di sản mà cụ L để lại chuyển thành tài sản chung của các thừa kế, nên khi ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thì Toà án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a.3, tiểu mục 2.4, mục 2, phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.

Năm là, nếu vận dụng Điều 247 BLDS, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, như quan điểm thứ tư rõ ràng là không ổn, bởi theo quy định tại điều luật này:1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”. Kể từ thời điểm mở thừa kế sau khi cụ L chết cho đến trước khi ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cha mẹ để lại, thời gian này kéo dài khoảng 24 năm, tuy vợ chồng ông A công khai sử dụng và những người thân trong gia đình không ai phản đối, nhưng để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS, thì: ... thời hạn mười năm đối với động sản ba mươi năm đối với bất động sản. Hơn nữa ngôi nhà cấp 4 gỗ lim, xây tường gạch xung quanh có diện tích 49m2, là công trình được xây cất trên diện tích đất 394 m2, nên không thể tách biệt giữa động sản với bất động sản, do vậy việc áp dụng Điều 247 BLDS như quan điểm này đề xuất là không khả thi, không phù hợp với thực tế.

Từ những phân tích trên, theo quan điểm của người viết trong trường hợp này phải xem di sản của ông A để lại là tài sản chung của các thừa kế, khi có tranh chấp  yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết, có như vậy mới giải quyết triệt để yêu cầu khởi kiện, vì suy cho cùng mục đích cuối cùng của các nguyên đơn là chia tài sản của người chết để lại mà lẽ ra theo quy định của pháp luật họ được phải thừa hưởng và trong thực tế trong đời sống xã hội dân sự ở nước ta hiện nay đang tồn tại loại tranh chấp tương tự như thế là rất nhiều.

Trên đây là những quan điểm khác nhau về giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật về thừa kế. Rất mong nhận sự quan tâm trao đổi cùng Quí bạn đọc.

 

Th.S Lê Văn Sua


[1] 1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

[2] Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

[3] Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

[4] Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn

1. Trong trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn, thì việc định giá tài sản được thực hiện trên hồ sơ của tài sản, trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá.

2. Việc định giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều này phải tuân theo các trình tự, thủ tục định giá tài sản quy định tại Điều 11, 12, 13, 15, 16, 17, 18 và 19 của Nghị định này.

Nguồn: Bộ Tư Pháp

Hỗ trợ trực tuyến

ĐIỆN THOẠI GẶP LUẬT SƯ: 0972238006(zalo, viber)

Hỗ trợ trực tuyến:
Skype: Skype
0972238006
Thừa kế là gì, di sản thừa kế là gì, cách xác định di sản thừa kế
THỦ TỤC CÔNG CHỨNG CHO THUÊ NHÀ ĐẤT
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
luật sư ly hôn
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Hợp Đồng Tặng Cho Tài Sản Nhà Đất
luật sư tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp
luat su rieng cho cong ty
luật sư doanh nghiệp
luat su nha dat
luật sư doanh nghiệp
luật sư trả lời đài truyền hình
luật sư trả lời báo chí
Trang chủ | Luật sư chuyên giải quyết thuận tình ly hôn tại tphcm | Luật sư chuyên đại diện ủy quyền ly hôn | Luật sư chuyên soạn thảo các loại hợp đồng | Luật sư ly hôn tại Tân Bình, Gò Vấp | Luật sư chuyên đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án | Văn phòng luật sư tư vấn | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất với người nước ngoài | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất cho việt kiều tại sài gòn | Luật sư chuyên khởi kiện tranh chấp thừa kế | Luật sư chuyên khởi kiện thu hồi nợ | Luật sư chuyên làm giấy tờ nhà đất tại tphcm | Luật sư giỏi tại thành phố hồ chí minh | Dịch vụ sang tên sổ đỏ sổ hồng | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng | Tư vấn người nước ngoài ly hôn với người việt nam | Luật sư giỏi về thừa kế tại tphcm | Luật sư tư vấn luật đất đai | Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong vụ án hình sự | Luật sư chuyên tư vấn chia tài sản sau khi ly hôn | Luật sư pháp chế doanh nghiệp | Phí thuê luật sư ly hôn tại tphcm | Tư vấn thủ tục nhận thừa kế nhà đất | Luật sư cho việt kiều và người nước ngoài | Luật sư giỏi chuyên tố tụng | Luật sư cho công ty tại quận 6, bình tân | Luật sư cho công ty tại quận 5, quận 11, quận 10 | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho thuê | Luật sư chuyên nhà đất quận 9, quận 12 | Luật sư tư vấn cho cá nhân | Luật sư chuyên soạn thảo, review hợp đồng | Luật sư chuyên bào chữa các vụ án hình sự | Luật sư tại thành phố Thủ Đức | Luật sư tư vấn vu khống nói xấu xúc phạm danh dự trên facebook | Luật sư tư vấn soạn thảo văn bản, hợp đồng | Luật sư tư vấn soạn đơn khởi kiện | Luật sư hình sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư nhà đất tại thành phố thủ đức | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội lây lan dịch bệnh | Luật sư giỏi chuyên về lao động | Việt kiều có được thừa kế nhà đất tại việt nam không? | Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp mua bán nhà đất | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà mùa covid | Luật sư tư vấn phân chia tài sản chung của vợ chồng | Luật sư tư vấn thu hồi công nợ | Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp | Luật Sư Làm Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm | Tư Vấn Kiện Đòi Lại Nhà Cho Ở Nhờ | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà | Luật sư tư vấn mua bán nhà đất | Luật sư tư vấn hợp đồng vô hiệu | Tư vấn hợp đồng giả cách | Luật Sư Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai | Tư Vấn Tranh Chấp Ly Hôn | Luật Sư Chuyên Ly Hôn Nhanh Trọn Gói | Tư Vấn Chuyển Nhượng Cổ Phần Vốn Góp | Luật Sư Bảo Hộ Doanh Nghiệp | Luật Sư Giải Quyết Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm | Tư Vấn Kiện Đòi Nợ | Luật Sư Tranh Chấp Nhà Ở | Luật Sư Chuyên Soạn Đơn Khởi Kiện Khiếu Nại | Luật sư tư vấn soạn đơn ly hôn | Luật Sư Tư Vấn Thành Lập Doanh Nghiệp | Luật Sư Tư Vấn Tại Công Ty | Luật Sư Chuyên Nhà Đất Tại Quận 6, Bình Tân, Bình Chánh | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nuôi Con Khi Ly Hôn | Luật Sư Tư Vấn Cho Người Hoa Tại tphcm/Hoa Kiều | Luật Sư tư Vấn Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động | Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Úc, Mỹ, Canada | Luật Sư Tư Vấn Luật Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp | Công Chứng Khai Nhận Thừa Kế | Văn Phòng Luật Sư Tư Vấn Chia Tài Sản Khi Ly Hôn | Luật Sư Tư Vấn Bất Động Sản | Luật Sư Tư vấn Thừa Kế Tại Quận 6, Bình Tân | Luật Sư Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại | Luật Sư Chuyên Đại Diện Ủy Quyền Tại Tòa Án | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Tân | Luật Sư Ly Hôn Tại Quận 6 | Luật Sư Chuyên Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Gò Vấp | Luật Sư Hình Sự Tại Biên Hòa | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Quận 10, Quận 11 | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Cố Phần Vốn Góp | Luật Sư Bảo Vệ Bào Chữa Tại Trung Tâm Trọng Tài | luật sư giỏi uy tín tại tphcm | Luật Sư tại Quận Tân Phú | Luật Sư Quận tại Phú Nhuận | Luật Sư tại Quận Gò Vấp | Dịch Vụ Hợp Thức Hóa Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất Cho Việt Kiều | Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Chánh | Luật Sư Chuyên Khởi Kiện Án Hành Chính | Luật Sư Tư Vấn Lấn Chiếm Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất | Tư Vấn Cấp Sổ Đỏ, Sổ Hồng | Luật Sư Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty Bất Động Sản | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Đất Đai Tại Bình Chánh | Luật Sư Bào Chữa Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Ngoài Giờ | Tranh Chấp Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đòi Lại Tài Sản | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đứng Tên Dùm Nhà Đất | Luật sư chuyên tư vấn doanh nghiệp | luật sư chuyên thuận tình ly hôn cho việt kiều/người nước ngoài | Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn với việt kiều | Tư vấn ly hôn chia tài sản với việt kiều | Luật sư tư vấn kháng cáo | Luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm | Luật sư cho ca sĩ, diễn viên | Tư vấn thay đổi trụ sở, giấy phép công ty | Luật sư tư vấn tranh chấp nhà thuộc sở hữu chung | Luật sư tư vấn lập di chúc | Luật sư giỏi về hình sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư giỏi về nhà đất tại tphcm | Luật sư giỏi di chúc thừa kế tại tphcm | Luật sư chuyên tranh chấp nhà chung cư | Luật sư giỏi về hình sự tại sài gòn | Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng góp vốn | Luật sư chuyên thừa kế di chúc | Luật sư chuyên tranh chấp vay tiền | Luật sư tư vấn luật đất đai | Kê khai thừa kế | tư vấn công chứng mua bán nhà đất | luật sư tư vấn thành lập công ty | luật sư chuyên tư vấn ly hôn chia tài sản | dịch vụ luật sư di sản thừa kế | Dịch vụ luật sư nhà đất tại TPHCM | luật sư tại quận 1 | luật sư tại quận 2 | luật sư tại quận 3 | luật sư tại quận 4 | luật sư tại quận 5 | Luật Sư Tại Quận 6 | luật sư tại quận 7 | luật sư tại quận 8 | luật sư tư vấn, bào chữa tội chống người thi hành công vụ | Luật sư tại quận 10 | Luật sư tại quận 11 | luật sư tại quận 12 | Luật sư tại quận bình thạnh | Luật sư tại huyện bình chánh | Luật sư huyện Nhà Bè | luật sư huyện hóc môn | Văn phòng Luật sư Nhà Đất | Luật sư huyện Cần Giờ | Văn phòng luật sư tại TPHCM | Luật Sư Tại Sài Gòn | luật sư việt nam | Luật sư Uy Tín | Luật sư Công Ty | luật sư tư vấn ly hôn tại thủ đức | Luật sư chuyên tranh chấp thừa kế | luật sư bào chữa tại tòa án | luật sư tại quận bình tân | Dịch thuật công chứng tại tphcm | luật sư giỏi và uy tín | luật sư tư vấn tại nhà | luật sư tư vấn hợp đồng mua bán nhà đất | mẫu hợp đồng mua bán nhà | mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán nhà | luật sư chuyên hình sự | luật sư tư vấn thu hồi nợ | luật sư chuyên nhà đất | luật sư chuyên về khiếu nại, khởi kiện | luật sư giỏi về nhà đất | luật sư chuyên hợp đồng kinh tế | luật sư tư vấn hợp đồng mua bán hàng hóa | luật sư tư vấn tại bình dương | luật sư tại biên hòa đồng nai | Văn phòng luật sư tư vấn ly hôn | Luật Sư tư vấn tại Long An | Luật sư tư vấn tại cần thơ | Văn Phòng Luật Sư Chuyên Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn | Luật Sư Làm Chứng | Tư Vấn Công Chứng Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Cho Người Nước Ngoài | Luật Sư Riêng Cho Công Ty | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Về Thuế Kế Toán | Tư Vấn Công Chứng Tại Nhà | Luật Sư Thừa Kế Tại Tphcm | Tư Vấn Luật Cho Việt Kiều Mỹ | Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Mua Nhà Tại Việt Nam | Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh | Luật Sư Tư Vấn Luật Lao Động | Luật Sư Riêng Cho Các Công Ty Tại Sài Gòn | Luật Sư Quận Tân Bình | Luật Sư Cho Doanh Nghiệp | luật sư riêng cho các công ty | luật sư tư vấn thừa kế nhà đất cho việt kiều | luật sư riêng cho công ty nước ngoài tại việt nam | Đoàn luật sư tphcm - VPLS Gia Đình | Tư vấn chia tài sản khi ly hôn | luật sư tư vấn tranh chấp tại toà án | Luật sư tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài | luật sư bào chữa tại tòa án tphcm | luật sư tại quận 1 | tin tức nóng | luật sư tại quận 3 | Luật sư tư vấn bảo hiểm nhân thọ | luật sư tại quận 5 | luật sư bào chữa tư vấn tội cưỡng đoạt tài sản | luật sư tại quận 7 | luật sư tại quận 8 | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất quận 9, quận 2 | luật sư tại quận 10 | luật sư tư vấn bào chữa tội tham ô | Thuê luật sư bào chữa hình sự | luật sư nhà đất thừa kế tại quận tân bình | luật sư thừa kế tại huyện bình chánh | luật sư chuyên thừa kế nhà đất tại quận bình tân | luật sư bào chữa tội làm con dấu, tài liệu, hồ sơ giả | luật sư chuyên thừa kế tại quận phú nhuận | luật sư bào chữa tư vấn tội cố ý gây thương tích | Luật sư tư vấn về xây dựng/luật xây dựng | Luật Sư Chuyên Về Di Chúc | luật sư giỏi về nhà đất tại quận bình thạnh | Tư vấn du học xin visa | Luật sư tranh chấp nhà đất | Luật sư tư vấn di chúc | Luật sư thừa kế nhà đất tại gò vấp | luật sư tranh tụng tại tòa án | luật sư tư vấn hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất | luật sư chuyên tư vấn hợp đồng thuê nhà | Văn Phòng Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Tphcm | Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng | Luật sư tranh chấp bất động sản | Văn phòng luật sư doanh nghiệp | Luật Sư Bào Chữa Tại TPHCM | Luật sư tư vấn hợp đồng vay tiền | Thủ tục tuyên bố 1 người tâm thần | Luật sư tư vấn tranh chấp công ty | luật sư tư vấn thu hồi nợ | luật sư tư vấn thuận tình ly hôn | luật sư tư vấn đơn phương ly hôn | Luật sư tư vấn tranh chấp đất đai | Dịch vụ luật sư làm sổ hồng sổ đỏ | Luật Sư Tố Tụng | Dịch Vụ Luật Sư Ly Hôn Nhanh | Luật sư tư vấn ly hôn tại quận 5, quận 11 | Luật Sư Tư Vấn Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng | luật sư tư vấn thừa kế theo di chúc | Luật sư tư vấn phân chia thừa kế quận 6, quận 11, quận 10, quận 5 | Luật sư thừa kế tại quận 1, quận 2, quận 3, quận 4, quận 7 | Luật sư tư vấn phân chia thừa kế tại quận 8, quận 9, quận 12 | Luật sư phân chia thừa kế tại bình chánh, Tân Phú, Bình Thạnh, nhà bè | Luật Sư Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Thừa Kế Tại Quận 5 | Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự, ly hôn, thừa kế, nhà đất, doanh nghiệp | Luật sư tư vấn bào chữa tội đánh bạc/đá gà/lô đề/cá độ | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Mua Bán Nhà | Tư Vấn Công Chứng Thừa Kế | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Kinh Doanh | Luật Sư Tư Vấn Soạn Thảo Hợp Đồng | Thừa Kế Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Đòi Lại Nhà Đất | Dịch Vụ Luật Sư Thu Hồi Nợ Khó Đòi | Luật sư tư vấn tranh chấp cổ đông công ty | Khởi Kiện Bồi Thường Danh Dự Nhân Phẩm | Luật Sư Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khởi Kiện | Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình | Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Góp Vốn | Tranh Chấp Tài Sản Chung Của Vợ Chồng | Luật Sư Giỏi Uy Tín Tại Việt Nam | Luật Sư Tại Sài Gòn Việt Nam Tư Vấn Cho Việt Kiều | Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài | Dịch Vụ Thành Lập Công Ty Trọn Gói Tại Tphcm | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Doanh Nghiệp | Tổng Đài Tư Vấn Pháp Luật | Luật Sư Tư Vấn Mua Nhà Đang Thế Chấp Ngân Hàng | Quyền Thừa Kế Nhà Đất Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Tặng Cho Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Đứng Tên Dùm Nhà Đất Căn hộ Chung Cư | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Cho Việt Kiều | Luật Sư Tư Vấn Mua Bán Căn hộ | Luật sư tư vấn Thỏa Thuận Tài Sản Của Vợ Chồng | Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Trọn Gói Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Bình Tân, Quận 6, Gò Vấp | Luật Sư Sài Gòn Chuyên Bào Chữa Ở Miền Tây | Dịch Vụ Luật Sư Đòi Nợ | Luật Sư Tư Vấn Mua Đất Nền | Luật Sư Tư Vấn Đơn Phương Ly Hôn Tại Quận 6 | Luật Sư Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Với Người Nước Ngoài | Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Đất | Tư vấn Thành Lập Chi Nhánh Văn Phòng Đại Diện | Luật Sư Tư Vấn Công Ty Cổ Phần | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khai Di Sản Thừa Kế | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất Tại Biên Hòa | Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Nhà | Điều Kiện Việt Kiều Mua Nhà Sài Gòn | Tư Vấn Bồi Thường Khi Bị Thu Hồi Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nội Bộ Doanh Nghiệp | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Mua Bán Căn Hộ Chung Cư | Luật sư trên truyền hình và báo chí | Luật sư tư vấn đăng ký nhãn hiệu logo độc quyền | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lao Động | Luật Sư Tư Tranh Chấp Mua Bán Đất Nền | Luật Sư Tại Chợ Lớn | Luật Sư Tư Vấn Về Án Phí | Tư Vấn Khởi Kiện Tranh Chấp Đất Đai | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Đặt Cọc | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Ranh Giới Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lối Đi Chung | Luật sư tư vấn giữ quốc tịch cho việt kiều | Luật sư tư vấn xác nhận nguồn gốc việt nam | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn cho việt kiều | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại sài gòn việt nam | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho việt kiều | Dịch vụ luật sư nhà đất dành cho việt kiều | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại việt nam | Luật sư chuyên bào chữa cho bị can bị cáo | Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn và thuận tình ly hôn | Cần Tìm Thuê Luật Sư Giỏi Tại Tphcm | Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại bình tân, quận 6 | Luật sư tư vấn luật thừa kế tại tphcm | Làm sao để dành được quyền nuôi con khi ly hôn | Luật sư tư vấn lập vi bằng | Luật sư tư vấn tố cáo vi phạm hình sự | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng do bất khả kháng | Luật sư tư vấn ly hôn đơn phương | luật sư chuyên tư vấn đòi nợ | Luật sư chuyên tranh tụng hình sự | Luật sư tư vấn tranh chấp giáp ranh nhà đất | Luật sư tư vấn kiện hủy giấy chứng nhận sổ hồng sổ đỏ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa cho người bị hiếp dâm trẻ em | Luật sư chuyên tư vấn luật đất đai nhà ở | Luật sư tư vấn thời hiệu khởi kiện thừa kế | Luật sư tư vấn bào chữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản | Luật sư chuyên bào chữa hình sự tại tphcm | Luật sư chuyên về kinh tế | Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện vụ án hành chính quyết định hành chính | Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi đất | Luật sư giỏi chuyên về tranh chấp hợp đồng kinh tế thương mại kinh doanh | Luật sư tư vấn nhà đất | Luật sư tư vấn làm mới và gia hạn visa - Renew and extend visa | Luật sư tư vấn làm thẻ tạm trú – Renew/extend temporary residence | Luật sư tư vấn giấy phép lao động cho người nước ngoài/Working permit | Luật sư tư vân kết hôn với người nước ngoài | Luật sư chuyên bào chữa tội mua bán vận chuyển tàng trữ ma túy | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà hàng, khách sạn, mặt bằng | Luật sư tư vấn tranh chấp ranh đất | Luật sư tư vấn luật hình sự | Luật sư tư vấn tại ngoại, bảo lãnh | Luật sư tư vấn qua điện thoại, online, trực tuyến | Luật sư tư vấn thừa kế do chết vì covid | Luật sư tư vấn hợp đồng nhà xưởng, văn phòng | Lawyer at Ho Chi Minh City, Viet nam | divorce lawyer at Ho Chi Minh City | Luật sư tư vấn thừa kế sổ tiết kiệm, tài sản | Luật sư tư vấn thừa kế cổ đông cổ phần vốn góp cổ phiếu trong công ty | Luật sư tư vấn thừa phát lại | Văn phòng luật sư tại quận 1 | Luật sư tư vấn ly hôn với người nước ngoài | Luật sư tư vấn tố cáo, khiếu nại | Luật sư tư vấn thừa kế nhà đất tại bình thạnh | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội phạm công nghệ cao, mạng internet, facebook | Luật sư chuyên tư vấn mua bán đất dự án | Luật sư chuyên tư vấn mua bán nhà đất bằng tay | Luật sư chuyên bào chữa tội tham ô, hối lộ, lợi dụng chức vụ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn lậu | Luật sư tư vấn bào chữa tội trốn thuế | Luật sư giỏi tại tphcm | Luật sư công giáo | Luật sư tư vấn làm đơn giám đốc thẩm | Luật sư giỏi chuyên đòi nhà đất | Luật sư chuyên tư vấn thi hành án | Luật sư tư vấn đòi lại tiền mua đất nền dự án | Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi giấy chứng nhận, sổ đỏ, sổ hồng | Thế nào là tội cho vay nặng lãi | Luật sư giỏi chuyên bào chữa án ma túy | Tư vấn về hành vi ngoại tình vợ chồng | Luật sư tư vấn bào chữa về tai nạn giao thông | Luật sư tư vấn bào chữa về tội mua bán hàng cấm | Luật sư tư vấn tranh chấp tín dụng ngân hàng | Luật sư tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh | Luật sư tư vấn kiện thẩm mỹ viện | Luật sư chuyên tư vấn mua bán doanh nghiệp | Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán ma túy | Luật sư tư vấn hộ kinh doanh cá thể | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa về tiền bitcoin | Luật sư chuyên tư vấn ủy quyền | Các án lệ | Luật sư chuyên tư vấn đầu tư nước ngoài | Luật sư giỏi chuyên bào chữa án kinh tế | Luật sư tư vấn bào chữa khi bị bắt | Luật sư giỏi chuyên tư vấn bào chữa tại đà nẵng | Tư vấn đòi nhà đất đứng tên dùm | Luật sư giỏi tại long thành đồng nai | Luật sư chuyên giải quyết các loại tranh chấp | Làm sao để được án treo? | Luật sư tư vấn đòi nợ cho công ty | luật sư tư vấn hoàn công, giấy phép xây dựng | Luật sư tư vấn bào chữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy | Luật sư nhận ủy quyền đại diện | Tư vấn bào chữa để được án treo tại ngoại | Giới thiệu | VIDEO LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH | Luật Sư tư vấn bào chữa tội giết người | Luật Sư Thừa kế | Thành Công Đạt Được | Luật Sư Riêng Cho Gia Đình Và Doanh Nghiệp | Báo Chí Và Chúng Tôi | Luật Sư Doanh Nghiệp | Luật Sư Nhà Đất | Luật Sư Di Trú | Luật sư Dân sự | Luật Sư Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn | Luật Sư Tranh Tụng | Luật sư tư vấn luật lao động | Văn phòng luật sư tư vấn cho việt kiều | Luật sư Chuyên Kinh Tế | Luật Sư Giỏi Về Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Thi Hành Án | Luật Sư Tư Vấn Miễn Phí | Dịch Thuật Công Chứng | Luật Sư Riêng Cho Công Ty Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn | Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng | Luật Sư Công Nợ | Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tphcm | Luật Sư bào chữa tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản | Luật Sư Kinh Nghiệm | Hỏi đáp pháp luật | Văn bản pháp luật | Liên Hệ

  ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH

Chúng tôi tư vấn cho tất cả các khách hàng tại quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, tân bình, phú nhuận, Bình Thạnh, bình tân, tân phú, bình chánh, Thủ Đức... và các tỉnh trong cả nước. Chúng tôi tư vấn tận nhà, tận công ty nếu quý khách có nhu cầu thì liên hệ các luật sư gần nhất địa điểm quý vị đang sinh sống.

Liên hệ gặp luật sư: 

Văn phòng trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6, TP.HCM

(bên cạnh Phòng công chứng số 7).

Chi nhánh tại Biên Hòa: 5/1 Nguyễn Du, Quang Vinh,

Biên Hoà, Đồng Nai.

64 Võ Thị Sáu, Tân Định, quận 1, TPHCM



Luật Sư Trần Minh Hùng, Trưởng văn phòng, điện thoại: 0972238006 (zalo-viber)- 028.38779958

Để thuận tiện cho quý vị muốn gặp trực tiếp luật sư, vui lòng điện thoại trước cho luật sư khi quý vị đến văn phòng chúng tôi. 

Trân trọng cảm ơn.




Email: vanphongluatsugiadinh@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.vn
Giấy phép số: 41.01.1999/TP/ĐKHĐ do Sở tư pháp Tphcm cấp 03/06/2013, chủ sở hữu website: Trần Minh Hùng