Về trách nhiệm dân sự:
Theo
quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Điều 604. Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô
ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy
định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì
áp dụng quy định đó.
Điều 605. Nguyên tắc bồi
thường thiệt hại
1. Thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được
giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù
hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu
cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Do
chưa có kết luận cuối cùng từ phía cơ quan chức năng về việc xác định lỗi, mức
độ lỗi cụ thể nên chúng tôi không thể tư vấn chính xác cho bạn về trách
nhiệm bồi thường phải chịu được.
Tuy
nhiên, dựa vào quy định của pháp luật dân sự thì khi xác định được lỗi thì áp
dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong trường hợp này do
tính mạng bị xâm phạm nên mọi thiệt hại liên quan sẽ giải quyết theo
quy định Bộ luật Dân sự cụ thể:
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Người xâm phạm tính mạng của
người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một
khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người
này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp
nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp
tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối
đa không quá 100 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Về trách nhiệm hình sự:
Điều
260 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau: “1. Người nào tham gia
giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây
thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Làm chết người; b) Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương có thể 61% trở
lên; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; d) Gây thiệt
hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. 2. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: a) Không
có giấy phép lái xe theo quy định; b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà
trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma
túy hoặc chất kích thích mạnh khác; c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc
cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều
khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Làm chết 02 người; e) Gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể
của những người này từ 122% đến 200%: g) Gây thiệt hại về tài sản từ
500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng. 3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Làm chết 03 người
trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; c) Gây thiệt
hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên. 4. Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định
tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời,
thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. 5. Người phạm tội còn
có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm.”
Như
vậy, căn cứ vào quy định trên của pháp luật, người tham gia giao thông đường bộ
mà vi phạm quy định về an tòa giao thông đường bộ nếu thuộc các trường hợp được
mô tả trong Điều 260 Bộ luật Hình sự thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có khả năng
nhận thức, khả năng điều khiển hành vi.
Mặt
chủ quan của tội phạm
Lỗi
của người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ là lỗi
vô ý.
Điều
11 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về vô ý
phạm tội như sau: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1.
Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được; 2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”.
Tùy
vào hành vi, hậu quả của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xác
định mức hình phạt mà tội phạm phải chịu.
Ngoài
ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự
Khoản
3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “3.
Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và
được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa
giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình
sự”.
Điểm
a, b khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định về tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng như sau: “a) Tội phạm
ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy
là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; b) Tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên
03 năm tù đến 07 năm tù”.
Như
vậy, người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông theo khoản 1
Điều 260 Bộ luật Hình sự có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu người phạm
tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải
và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, vụ việc tài xế tông chết
người và gây thương tích cho nhiều người, điều khiển xe trong tình trạng rượu
bia thì theo tôi khó được miễn trách nhiệm hình sự.
Cơ quan chức năng cần khởi tố vụ án
để điều tra nhằm xác định trách nhiệm hình sự cũng như dân sự theo quy định.
|